Nhìn trên văn đàn thế giới
có rất nhiều thi sĩ nổi danh, phụ nữ cũng góp phần không nhỏ, thể văn vần nầy
lúc đầu chỉ dành cho giới thượng lưu trí thức dần dần đã phổ cập hóa để phù hợp
với mọi thời đại, tầng lớp dân gian. Ở nước ta cũng thế, chẳng những nổi tiếng
trong nước mà còn làm nở mặt ở nước ngoài như Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc đĩnh
Chi với bài thơ chữ "Nhất", Nguyễn Du với tuyệt tác Truyện Kiều và cả
truyện thơ Lục vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Một trang trong tập I của truyện thơ Lục Văn Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu
Về phái nữ các bà Đoàn thị
Điểm, huyện Thanh Quan, Hồ xuân Hương, Sương nguyệt Anh, Manh manh Nguyễn thị
Kiêm, ... đã tô điểm thêm sắc thái sinh khí làng thơ. Thế mà thú thật cho đến ngày nay vẫn chưa tìm được ai như nữ sĩ Hồ xuân
Hương.
Thời phong kiến Nho học thịnh hành, bà đã bị người
đương thời đả kích phê phán gắt gao, lên án vì lối diễn tả táo bạo châm chọc
chống đối không khoan nhượng, lối hành văn "thô tục" tầm thường,
không cầu kỳ bóng bẩy kiêu sa nhiều điển tích, tư tưởng thì quá ư phóng khoáng
độc đáo châm biếm khó lường manh nha tinh thần cách mạng bức phá xiềng mủ trói
chụp hủ tục phi lý gắt gao. Hơn thế nữa, bà bị xem như là người bị dồn ép uất
ức không thoả mãn hận đời nên thay vì nhả ngọc phun châu thì nhả độc phun tục
vậy .
Chủ đề
thường chú trọng đến những vấn đề bị cấm đoán, có nghĩ mà chẳng ai dám nói ra,
những vật dụng quen thuộc, mật thiết với cá nhân đến nỗi mà người Việt ta chê
"dơ" "bẩn" thô tục e ngại gợi lên. "Quân tử" khác
với " tiểu nhân”, quí phái cách biệt với thường dân theo các học giả đương
thời là thế đấy! Vua Lê thánh Tôn cũng đã tự ví mình trong bài thơ "Con
Cóc" tuy có bình dị nhưng vẫn nghiêm chỉnh kiêu kỳ trau chuốt như
"Bác mẹ
sinh ra vốn áo sồi,...
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình
ngồi ",
Hòn Con Cóc-Vịnh Hạ Long
và bài
"Người bù nhìn" cũng cùng quy hướng.
Bù nhìn người H’Mông –Hà Giang
Sau nầy với loại thơ trào phúng vẫn chưa ai đạt tới
cái đanh đá chưởi đổng ngạo đời, lối văn thâm sắc, chính xác căng thẳng kích
thích tưởng tượng gợi cảm tạo hình. Trước kia thơ của bà còn bị "phong tỏa"
trong chương trình giảng dạy chính thức nhưng trên thực tế thường được thuộc
lòng rỉ tai nhau đùa phá đố vui .
Đề tài thật gần gũi dễ tìm ai cũng biết như "
Cái quạt" " Bánh trôi nước",...
Bà huyện Thanh Quan có bài " Qua đèo
Ngang" nổi danh thi sĩ,
Đèo Ngang
Bà Xuân
Hương với bài "Đèo Ba Dội"
làm lắm bà đỏ mặt nhiều ông cứng người.
Đèo Ba Dội
Trong ngày du Xuân, trò chơi đánh đu
‘’ Trai ôm gối hạc khom khom cật"
"Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng",
bình dân thể
thao thế mà ngòi bút bà cũng gây lắm người lên cơn sốt.
Đánh đu
tủi hờn cho
thân phận lẻ mọn
"Kẻ đắp
chăn bông kẻ lạnh lùng,"
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung’’
những
chủ đề rắc rối u uẩn này đâu xa lạ gì với chúng ta đâu, vậy mà bút họa của bà
cũng bị các nhà đạo đức tẩy chay !
Bị lên án
gắt gao là nội dung luôn đầy ẩn ý trần tục khiêu dâm không trong sạch, đó là
lập luận của những nhà văn hay chữ giỏi chứ còn đối với đại đa số chúng ta nếu
phải trả lời câu đố về xuất vật:
Phành ra ba
góc da còn thiếu,
Xếp lại đôi
bên thịt vẫn thừa"
là "cái quạt" thế là trúng y bon,
chẳng sai.
Cái
quạt giấy
Còn ai muốn
nghĩ quanh quẩn tròn méo gì thì do riêng cá nhân người phân tích tưởng tượng
nghiền ngẫm suy ra tùy hứng .
Người
Việt ta ai chẳng có lần ăn thử bánh trôi
nước nên khi đọc
" Thân em
thì trắng lại thì tròn,
Bảy nổi ba
chìm với nước non,
Lớn nhỏ mặc dù
tay kẻ nặn,"...
thì đoán
ngay là bánh gì rồi.
Bánh
trôi nước
Vả lại nếu lấy tục tả tục, thanh tả thanh thì chẳng
khó gì chứ còn dùng thanh mà tả tục quả là tuyệt hảo .
Ý thơ đã bị chỉ trích nặng nề lời thơ cũng không
được tha, kém tao nhã, thô bỉ, không trang trọng, quí phái, ít thi vị, tầm thường,
đôi khi trịch thượng, hỗn láo, xấc xược, phàm phu tục tử. Như là:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”...
“Ấy ấy đi đâu lũ ngẩn
ngơ’’
Lại đây cho chị dạy làm thơ ‘’ ...
Thể thơ còn giữ nề nếp thất ngôn tứ, bát cú, nhưng
âm vận là những tên du kích sở trường bắn sẻ như vần " eo " ‘’on’, đột kích qua vần "
iêu", ồ ạt tấn công bằng " à " " ùng "ồng" .... Niêm luật không chê
được, rõ đúng cách nhưng vần thật hóc búa rắc rối khó họa.
Hơn thế nữa, cú pháp còn rất đa dạng như đọc ngược
cũng được đọc xuôi cũng thông. Tuyệt nhất là lối lái chữ, độc nhất vô nhị trên
thế giới, lối " hồi mã thương" của Nhạc phi, chiến thuật bẫy chông
trên sông của Trần Hưng Đạo. Thưởng thức thơ bà, người đọc phải cẩn trọng nếu
không, vô tình lẹo lưỡi nói lái thì lắm lúc người đọc đứng tim, người nghe
cười...tá hỏa như
" Đứng
tréo’’(đ. trứng) trông
theo..." "chiếc diều ai nó ‘’lộn
lèo" ( lẹo l..).
Thật sự cho đến ngày nay
chưa tìm thấy được một nhà thơ như bà . Chẳng những bà đã sử dụng tuyệt xảo mọi
bút pháp, bà đã biết phong phú hóa, viễn tượng hoá, biến thiên hóa ý thơ thành
những câu đố dí dỏm hóm hỉnh trào lộng, bài toán hóc búa, đề luận khó bình .
Ngày xưa chúng ta há chẳng đã hãnh diện về Trạng
Quỳnh vẻ giun, Mạc Đĩnh Chi phê ngang một gạch được phong làm sứ thần hai nước,
vậy ngày nay nếu có cuộc tranh tài thế giới có thể nữ sĩ sẽ đọat giải Nobel vì
đã phát minh sáng kiến công thức "biến
tục thành thanh".
Có dịp đọc
qua một quyển sách tiếng Hòa lan viết về Việt Nam trong đó tác giả có đề cập
vài hàng đến bà "thiên về mặt khiêu
dâm ". Thế mới thấy " tiếng
lành đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày đường", và tiếng oan còn vượt tường
âm thanh phóng xa gấp bội. Bị cấm học trong trường một thời gian, chưa được phổ
biến rộng rãi, chưa được dịch ra nhiều tiếng ngoại lúc bấy giờ, thế mà cái bí
mật ẩn tàng "thạch trung ẩn ngọc" nầy vẫn bị bật mí, hiểu lầm!
Thời đại nầy, kỹ thuật truyền thông tiến bộ hiện
đại tân kỳ, nhiều việc mà trước kia bị cấm đoán còn được trình bày nhan nhản
chi li trắng trợn chấm phá phóng đại tuyệt kỷ. Nạn khiêu mãi dâm bành trướng
hoành hành sâu rộng cho đến trẻ em cũng không được buông tha. "Cơn lốc
nhân tai" đó đã làm đảo điên bao
chính phủ, tổn danh hạ bệ bao tai to mặt lớn điển hình ở Bỉ có vụ Dutroux,
Clinton ở Mỹ ...
Đọc kỹ lại, phải công nhận
là vòng quạt đề tài của bà rộng mở, phong phú vừa tinh tế không bộc lộ công
khai, vừa lịch lãm cô động gói ghém trong thể thơ ngắn gọn. Với nhận xét có
chiều sâu nhạy cảm bà đã lồng vào thi phú tính thực tiễn, một khía cạnh mới tả
chân, chẳng hạn về nhu cầu căn bản cần thiết của con người như ăn, nghỉ, giải
trí và sinh lý truyền giống để sinh tồn
Vấn đề nào cũng cần được thực hành đúng phương
pháp, mỹ, nghệ thuật và "tấm lòng son".
Về phần nghỉ ngơi,
"Cái quạt" đâu thể thiếu trong
mọi xứ, nhà nóng bức, dĩ nhiên là
" Chúa
dấu vua yêu cũng cái nầy".
Bốn cái quạt mo cau
Giải trí nữa rất cần ai cũng thích, du lịch thưởng
ngoạn là việc thường tình trong các nước văn minh ngày nay, vì vậy
" Hiền nhân quân tử ai mà chẳng, "
"Mõi gối chồn chân vẫn muốn trèo."
Nếu quả thật
thơ bà có nhiều ẩn ý thì lối nói bóng gió úp mở của bà có mấy ai làm được, vừa
thư thái bén nhạy cợt nhả bâng quơ bông đùa vừa chuẩn xác, đầy suy tính như
trong một ván cờ tướng, thí quân, song xa, pháo trùng hay chiếu tướng
Cờ tướng lúc bắt đầu với 32 quân Tướng Sĩ
Tượng Xa Pháo Mã Tốt
Thơ bà như
" trái cấm" thơm ngon, trái bom định hướng, bàn tay sắt bọc nhung,
chiếc gươm treo kiếm sĩ, tay ấn cao của các bậc "magie" phù thủy,
"hấp tinh đại pháp" của cô gái đầy nội lực thâm hậu, một giàn phóng
tư tưởng qui mô theo một quỹ đạo hẳn hoi trực chỉ đến mục tiêu không lệch hướng.
Trên một thế kỷ qua, tưởng đã đến lúc chúng ta nên
lần giở lại những trang thơ cũ, khêu sáng ngọn tim đèn bằng tư thế nhìn khách
quan vô tư khoáng sảng, đính chính sai lầm xuyên tạc, thẩm định lại vai trò vị
trí, tự hào đã có một “Bà Chúa thơ Nôm”,
một nữ thi hào có một không hai trên thi đàn hoàn vũ.
Cô
Trần Thành Mỹ