TA ĐI TÌM NHAU…

 



Yêu thương bao giờ cũng vậy, không thể so đo hay tính lường. Và yêu thương dù cho đi hay để nhận lại đều có cái giá của nó. Đó không phải là đổi chác, mà đó là sự dâng tặng tự nguyện và vô điều kiện. Và như thế ta đi tìm nhau để mong thấy nhau không bằng ánh mắt, không bằng cái nắm tay, mà bằng một ý nghĩ về nhau. Tìm nhau giữa cõi vô thường, thấy nhau giữa cảnh vô thường và thương nhau trong tưởng vô thường…

Ta đi tìm nhau trong chiều dài nỗi nhớ

Tháng ngày qua là những giấc mơ dài…

Để vơi nhớ những tháng năm chờ đợi.

Ta đi tìm....Nỗi nhớ ở trong nhau......

(Trích từ thơ của tác giả Nguyên Nguyên)

Mặc dù đa số người Việt hải ngoại sống tương đối khá đầy đủ ngày nay - có người nghèo người sống khá giả. Song ai cũng có khôn nguôi nỗi nhớ về một thuở sống ở quê hương Việt Nam mến yêu. Đã gần nửa thế kỷ trôi qua chúng ta thấm thía vì có ai ngờ rằng “một lần đi là một lần vĩnh biệt”; trong số ấy có những người đã vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất lạnh nơi xứ lạ quê người, họ đã ôm ấp những giấc mơ là được nhìn thấy lại quê hương yêu dấu. Cũng có người luyến tiếc những mối tình đầu nhẹ nhàng…

Sau khi trúng tuyển tú tài 2 tháng 6 năm 73 với sổ điểm vượt tiêu chuẩn của bộ Giáo Dục, Thụy nộp đơn xin du học Canada. Trong lúc chờ đợi bộ Nội Vụ xét đơn, anh nộp đơn thi vào đại học Phú Thọ và Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Gia đình Thụy đề nghị anh nên lên Đà Lạt học tạm và sống cho quen với khí hậu lạnh trước khi lên đường sang Canada. Thế là Thụy một mình khăn gối lên Đà lạt để bắt đầu cuộc sống mới như một sinh viên đại học. Anh thuê nhà trọ gần chợ Hoà Bình, không xa đường Bùi Thị Xuân cho lắm cho tiện đi bộ lên ĐHCTKD. Việc ăn uống cũng khá tiện lợi vì nằm gần giữa phố chính Đà Lạt. Thành phố sương mù lành lạnh rất nên thơ nhưng không thiếu sự lãng mạn của nó. Thời đó khi nói về Đà Lạt người ta liên tưởng ngay đến hồ Xuân hương, hồ Than thở, đồi thông hai mộ, thác Cam Ly, vườn hoa Đà Lạt, v.v.v… Tản bộ từ Viện đại học về nhà trọ cũng không xa lắm. Thụy với tính tình có chút lãng mạn thích bách bộ trên đường đến trường để có dịp ngắm nhìn những cô nữ sinh Bùi Thị Xuân với tà áo dài màu áo thiên thanh, má ửng hồng, áo đan khép nép trông càng trữ tình. Xa xa, hàng hàng lớp lớp sinh viên sỹ quan Đà Lạt oai nghiêm trong bộ đồng phục trắng đi dạo trên đồi thông Đà Lạt. Trong số các sinh viên đang học ở trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt TVBQGĐL Thụy có quen vài anh bạn học chung với anh trai. Làm sao quên được những buổi chiều, ngồi nhìn mặt hồ than thở trong xanh, phẳng lặng, thú vị hơn là thưởng ngoạn những dòng nước trắng xóa, êm ả, hiền dịu, thác Cam Ly trắng xóa ào ào giữa lòng thành phố, đã làm rung động xao xuyến tâm hồn bao nhà thơ, nhạc sĩ. Xung quanh thác Cam Ly là những anh chàng cho thuê ngựa...giống như những chàng cao bồi Mễ Tây Cơ... Đà Lạt có những chiều cuối tuần xuôi ngược, nôn nao tìm về một điểm hẹn hò, một giây phút gần gũi yêu thương, hay ngỡ ngàng trước một lời giã biệt. Kỷ niệm Đà Lạt là nơi ghi dấu bao mối tình, cuộc hẹn hò thơ mộng, và cũng là điểm khởi đầu của …một tình yêu chăng?. Bác sĩ Yersin người khai sinh nó khi tạo dựng nên thành phố lý tưởng này, cũng đã ngán ngẩm một câu chuyện tình của chính mình. Chuyện tình giết người trong mộng bên hồ Than Thở. Đà Lạt trở thành nơi diễm tình cho khách lãng du khắp bốn phương trời. Không thể nào quên thành phố thần kỳ này trong niềm thương, nỗi nhớ.


Sau buổi học về môn kinh tế đầu tiên ở giảng đường Thụ Nhân, Thụy nhớ không lầm là khóa CTKD10 (1973), có cô sinh viên dáng người cao cao da ngâm ngâm xinh xắn dân Nha Trang gốc Bắc ngồi cạnh Thụy đến hỏi:

“Ngân đến lớp trễ hôm nay nên không ghi chép hết note, anh có thể cho Ngân mượn notes của anh nhé.”

“Vâng tôi sẵn sàng”. Hơi ngạc nhiên Thụy trả lời.



Từ dạo đó Ngân tìm cách làm quen, cùng đi học và về nhà trọ ở cùng đường với Thụy. Họ vẫn vào lớp học và đi đi về về như bạn đồng môn, anh không nghĩ ngợi gì, vì dầu sao hai người cũng là dân tứ xứ đến đây ăn học không bà con dòng họ ở địa phương – tôi nghĩ thế cho nên trao đổi qua lại cho đỡ buồn thì cũng không có gì là quá đáng. Quen Ngân được vài tuần rồi trở thành thói quen, sáng nào Ngân cũng chờ Thụy trước cửa nhà trọ để cùng đến trường, nhiều khi anh cố ý lén ra cửa sau nhà trọ để tránh gặp mặt Ngân. Nhưng sự việc không xảy ra dễ dàng như dự tính. Thỉnh thoảng cuối tuần Ngân đến mời Thụy đi dạo bờ hồ Xuân Hương tìm một nơi yên lặng để hỏi bài những chỗ khó hiểu hay đi ăn chè ở tiệm Việt Hưng gần chợ Hòa Bình, nơi đó họ thường ngồi lặng hàng giờ nhìn ra khu phố chính của thành phố ngắm tà áo bay của các cô gái Đà Lạt... Lúc đầu vì nể tình đồng môn nên Thụy chấp nhận lời mời để đi thăm mọi nơi cho biết Đà Lạt thơ mộng đến độ nào và cũng là dịp tốt để ôn bài. Thỉnh thoảng hai người đem bài học ra vườn thông Đà lạt để ôn bài. Lần đầu bước chân lên đại học, các cours về kinh tế, kế toán, tâm lý học, cách giảng dạy của thầy cô cũng như cách hấp thụ bài vỡ cũng hoàn toàn khác với thời trung học. Đà Lạt xứ sở của các đôi tình nhân. Thụy là dân miền Tây chưa bao giờ thấy cây thông nên mỗi khi nhìn hàng thông xanh rì thẳng tắp anh lúc nào cũng cảm thấy bâng khuâng, hồ Xuân Hương, chợ Đà Lạt, những ngôi nhà biệt thự mang dáng dấp kiến trúc Pháp xưa, những liếp ngô, cải vườn cà phê, dâu... phủ lên cho đồi núi thêm một màu xanh của sự sống. Nhìn xung quanh như đang đi giữa Châu Âu là mơ ước của sinh viên Việt Nam lúc đó.



Đến cuối tuần lễ thứ 4, như thường lệ sau buổi học cùng đi dạo từ trường về nhà trọ, Ngân nói khẽ:

“Ngân sẽ thu xếp về Nha Trang vào dịp Noel này thăm bố mẹ, Ngân mời anh đi cùng thể để ra mắt bố mẹ được không?”

Thụy hơi ngạc nhiên về lời đề nghị bất ngờ ấy và anh dè dặt trả lời:

Để Thụy suy nghĩ lại rồi trả lời Ngân sau nhe”. Nét mặt Ngân có vẻ buồn buồn vì câu trả lời hơi thờ ơ của anh, chắc có lẽ Ngân đoán được phần nào cái tình cảm của Thụy dành cho cô. Tuy lòng cảm thấy vui vui vì có bạn gái chiếu cố đến mình nhưng thực tâm Thụy không muốn vươn vấn nhiều với các bạn gái và nhất là gieo hy vọng cho họ. Vã lại như một sinh viên xa nhà và xa tất cả để lo ăn học ở một phương xa mà làm quen với bạn mới Thụy nghĩ là chuyện bình thường, có ngờ đâu cô bạn tỏ vẻ nghiêm trọng (serious) và muốn tiến xa hơn về mối quan hệ tình cảm…

Tuần sau đó đầu tháng 11, gia đình điện thoại lên Đà Lạt cho biết là hồ sơ du học của Thụy đã được bộ Nội Vụ chấp nhận và anh phải thu xếp về Sóc Trăng gấp để lo giấy tờ bổ túc làm hộ chiếu, nộp giấy chấp nhập đại học bên Canada, giấy tờ chứng minh thư nhà băng, v.v….

Thụy hoang mang không có can đảm đến nhà trọ của Ngân để từ giã cô ấy lần cuối. Anh nghĩ cô ấy sẽ rất thất vọng khi không còn nhìn thấy Thụy để cùng mỗi sáng đến đại học Đà Lạt với cô nữa. Anh bắt máy bay Đà Lạt – Sóc Trăng ngay ngày hôm sau.



Cuối tháng 11 năm 73 Thụy sửa soạn hành trang lên đường du học sang Canada, bồi hồi bỏ lại tất cả những kỷ niệm êm đềm của tuổi thanh niên, kể cả hai cô bạn thời trung học Hoàng Diệu Sóc Trăng tên Hoàng và Viết Phượng. Hai cô bạn gái vừa quen năm học cuối cùng 1971-72 ở Hoàng Diệu Sóc Trăng. Bề ngoài Thụy có dáng hơi đẹp trai, hiền lành dễ mến cho nên có lẽ anh sẽ vất vả với mấy cô bạn gái đây.

Trước khi khăn gói lên đường Thụy lái xe Honda đến từng nhà thăm hai cô bạn gái học trung học HD Sóc Trăng lần cuối. Gặp nhau họ vẫn bình thản trò chuyện dông dài, nào hỏi thăm về việc ăn học ở Đà Lạt như thế nào, dự định tương lai sẽ làm gì, v.v.v… nhưng Thụy còn ái ngại chưa dám thổ lộ với mấy cô bạn về chuyện đi du học của Thụy cả. Tính Thụy rất dè dặt, anh chỉ báo tin một chuyện gì khi biết chắc chắn là việc ấy sẽ xảy ra. Nhà Hoàng ở đối diện nhà thương Sóc Trăng không xa nhà anh lắm. Vậy mà bây giờ Thụy thấy nó xa thăm thẳm. Anh nhấn ga Honda vừa suy nghĩ miên man, không biết phải nói làm sao với Hoàng đây? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không gặp mặt Hoàng mình sẽ ra sao và Hoàng sẽ sống ở Việt Nam ra sao? Thụy cảm thấy thật chơi vơi, hình như tất cả sắp vượt khỏi suy luận của mình, không chủ động được gì hết. Khi Thụy thắng xe trước cổng nhà Hoàng thì vừa gặp anh cô đã hỏi ngay:

“Thụy mới đi Đà Lạt đầu tháng 10 mà bây giờ mới tháng 11 đã về như vậy chắc là có chuyện gì không ổn đây”. Thụy nhìn quanh nhà: nhà vắng teo hình như cả nhà đều đi vắng. Hoàng mời Thụy vào nhà và anh trả lời qua loa cho có lệ:

“À thì lâu lâu nhớ nhà và bạn bè về thăm có sao đâu!”

“Thụy đã đi thăm Viết Phượng chưa, chắc cô ấy trông tin lắm nhỉ”. Hoàng rặn hỏi với mục đích tìm hiểu tình cảm của anh nghiên về ai hơn. Cô tiếp: “Hoàng và các bạn vừa lên lớp 12 hồi tháng 9 rồi, không hiểu tại sao có nhiều bạn trai cùng lớp bỏ ra ngoài học hoặc trình diện nhập ngũ nữa...”. Mấy cô hỏi rặn. Thụy im lặng trong khoảnh khắc để cố nhìn dáng dấp Hoàng, có lẽ đây là lần cuối chăng! Tóc Hoàng dài óng ánh chải ngược về phía sau để lộ khuôn mặt trắng trẻo với đôi mắt ngời tinh anh. Anh bỗng thấy không gian chìm mất mà thấy gương mặt ấy là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ…Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Chỉ tong ngần ấy ngắn ngủi mà sao anh thâu nhận rõ các chi tiết. Phải chăng đó là hình ảnh của Hoàng mà Thụy muốn ghi lần cuối cùng vào tim, vào óc?. Anh trả lời:

“Mấy cô là nữ sinh nên không bị lệnh Tổng động viên, chứ trai tráng như chúng tôi đều tản mác khắp nơi để đối phó với lệnh TĐV ấy, có người vào quân ngũ, có người ra ngoài học thêm để thi nhảy tú tài 1, có người đi lính kiểng, Hoàng thấy khổ và thông cảm cho phận làm nam nhi không”.

Hai người hàn huyên tâm sự liên miên rồi Thụy kể chuyện ăn học ở xứ trữ tình lãng mạn với khí hậu lạnh lẽo nhưng anh không dám đề cập đến chuyện quen bạn gái mới tên Ngân, vì nghĩ các cô sẽ hiểu lầm về mình…Nhưng chuyện đi du học anh không thể dấu mãi với mấy cô được. Nhìn thấy Hoàng vui vẻ hỏi chuyện anh không nở mở miệng nói lời chia tay. Cuối cùng rồi anh cũng phải bật mí chuyện đi du học trong tuần tới. Anh nói:

“Có lẻ đây là lần gặp gỡ cuối cùng Hoàng à…”

“Sao vậy, Thụy vừa mới về từ Đà Lạt rồi lên trên ấy có trục trặc gì, mà là lần này là lần cuối cùng…”

“Nói thật với Hoàng, Thụy có nộp hồ sơ du học Canada nhưng vì không chắc là sẽ được chấp nhận cho nên Thụy chưa bao giờ mở miệng với bạn bè…Bây giờ hồ sơ du học đã được chấp nhận và Thụy đang về quê để thu xếp hành trang và từ giã mọi người để lên đường đây. Bây giờ còn đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không có dịp gặp nhau nữa”

“À như thế thì quá tốt chứ sao có vẻ buồn thế và tương lai sẽ rạng rỡ ra đấy nhé”.

“Không hẳn như thế đâu Hoàng ơi”

“Sao vậy?”

“Hoàng biết đó, gia đình Thụy đâu có khá giả gì. Gia đình mình đâu phải là con ông cháu cha cũng không phải là đại gia triệu phú. Nuôi mình ăn học ở đại học Đà Lạt hay Kỹ Thuật Phú Thọ là đã quá tốn kém. Bây giờ sang Canada tốn kém hơn gấp 10 lần. Thụy không muốn vì mình mà cả nhà với 9 anh em thắt lưng buộc bụng để dành dụm nuôi cho Thụy ăn học ở Canada. Thụy thuyết phục cha mẹ cố gắng gom góp đủ tiền để mua được cái vé cho Thụy đến được Canada rồi phần còn lại Thụy sẽ tự lo lấy. Thụy thừa biết là mình sẽ phải bươn chải và đương đầu với một cuộc sống mới đầy khó khăn và thử thách ở xứ người, không một người thân không cha mẹ ngày đêm chăm sóc, việc ăn học cũng như sức khỏe, v.v.v…. Cha mẹ nghe lời giải thích tạm ổn nhưng vẫn lo lắng cho đứa con vừa mới đầy 18 tuổi mà một mai này phải xa cha mẹ để tự túc nơi xứ lạ quê người, sẽ ăn ở và sinh sống ra sao. Ở tình huống ấy Hoàng sẽ rất hiểu trường hợp phiêu lưu của Thụy đấy...”.

“Thôi mình tạm chia tay ở đây và Thụy nhớ gửi thơ thường xuyên để tâm sự và chia sẻ với mình về cuộc sống lăn lộn nơi xứ người, vui cũng như buồn thành công cũng như thất bại nhé. Chúc Thụy đi đường thượng lộ bình an và gặt hái được nhiều may mắn”.

Yên lặng, Hoàng rơm rớm nước mắt, anh lặng lẽ ngoảnh mặt bỏ đi trong chốc lát để khỏi thấy cảnh phải chia tay lần cuối ấy, lòng buồn rười rượi để lại mối tình đầu đời chưa nói thành câu…”. Thụy đi đường bình an, nhớ gửi thơ cho mình nhé…”

Ngày đưa tiễn Thụy ra phi trường Tân Sơn Nhất thật đơn giản chỉ có cha mẹ, anh cả và ba anh bạn của ông anh Thụy tên Trần Hán Lương, một anh bạn cùng học đại học Minh Đức và anh Phước đến dự. Buổi chia tay của gia đình Thụy sao mà buồn thế trong khi đó những gia đình giàu có Sàigòn thì là một họp mặt chuyện trò vui vẻ xem ra như những cuộc đoàn tụ anh em ở hải ngoại sắp tới. Sau khi làm xong thủ tục hải quan thì Thụy chuẩn bị bước ra sân bay để lên chiếc Air France B727, anh đại uý cùng vài cảnh sát chận anh lại tại cổng ra máy bay và bảo trình hộ chiếu. Xem vội cái hộ chiếu, anh đại uý lắc đầu và nói: “đây là hộ chiếu giả anh ơi”. Thụy cảm thấy khó chịu về mấy cái trò bẩn thỉu hù thiên hạ để làm tiền cho đến phút cuối trước khi lìa xa quê hương. Anh nhẹ nhàng phản lại “thưa đại uý đây là hộ chiếu được cấp bởi bộ Nội Vụ Việt Nam đàng hoàng, nếu mấy thầy nói là hộ chiếu giả thì bộ Nội Vụ Việt Nam cũng là bộ Nội Vụ giả chắc”. Mấy anh cảnh sát thấy giằng co với Thụy chẳng đi đến đâu và rốt cuộc các anh cũng để yên cho Thụy lên máy bay. Thật tình là một sự dọa nạt và hối lộ trắng trợn giữa ban ngày.

Trên máy bay Thụy vẫn còn nhớ nhiều cô nương du học khóc thút thít khá lâu. Khi đến Paris để đổi máy bay đi Montréal thì đa số du học sinh Âu châu đã xuống gần hết chỉ còn trơ trọi Thụy và một anh VN khác. Trong lúc chờ đợi, chuyển đổi máy bay Thụy đến dạm hỏi anh VN mới biết anh bạn tên Huỳnh Công Hưng đi du học cùng trường với Thụy ở Montréal và Hưng sẽ có anh ruột đến đón tại phi trường. Thật may vì Thụy sẽ không sợ lạc đường đến Montréal và từ đó Hưng trở thành bạn thân cùng share phòng với Thụy hai năm đầu đại học.

Vừa đặt chân đến Montréal chuyện đầu tiên của Thụy là tìm chổ ở trọ và sau đó bắt đầu ngơ ngác tham quan Montréal và quan sát tình hình việc làm cho kế sinh nhai. Thụy tìm thấy 1 quán ăn Việt Nam nằm giữa phố Montreal – Văn Lang. Anh vội vào xin một việc làm, ông chủ quán còn trẻ tiếp đón anh nồng hậu nói chuyện với Thụy bằng tiếng Pháp:

Que puis-je vous aider? (tôi giúp gì được cho anh).

Thụy trả lời ngay: “xin lỗi anh nói được tiếng Việt chứ”

“À chào anh, nhìn anh từ xa cứ ngỡ anh là người espagnol (Tây ban nha)”.

“Dạ không, thưa tôi là người Việt Nam chính cống và mới đến Montréal  được hai ngày. Và Thụy xin hỏi anh ở đây có cần người không ạ. Vì Thụy đi du học tự túc cho nên muốn tìm một việc bán thời gian để lo đủ cho cuộc sống hàng ngày và trang trải học phí, tất cả đều là tự túc…”.

“Vâng tôi hiểu, may cho anh chúng tôi đang cần một bus boy làm ca đêm. Nếu anh chấp thuận thì từ chiều mai anh có thể bắt đầu từ 18:00 giờ”.

Thế là dịp may cũng vừa đến, vì Thụy sẽ không sợ chết đói trên xứ người nữa. Đến ngày 20 tháng 5 năm 1974 ông chủ bảo Thụy rằng ngày đó rất quan trọng và khuyên anh ăn mặc chỉnh tề vì sẽ có nhiều khách quý đến dự. Đúng như lời ông chủ đã nói trước, có rất nhiều khách diện đồ đặc biệt đến dự đêm hôm đó, có điều là trên tường có treo lá cờ đỏ với ngôi sao vàng ở giữa và ảnh Cụ Hồ nằm to tướng giữa phòng ăn. Thụy mới hiểu ra là ngày ấy là ngày sinh viên yêu nước ăn mừng sinh nhật Cụ Hồ. Và đó cũng là ngày cuối cùng anh làm việc tại nhà hàng Văn Lang. Sau đó Thụy lại tiếp tục xin làm bồi ở một nhà hàng tây La Crêpe Bretonne. Hai năm đầu du học với visa student các bạn sinh viên tự túc không được đi làm nên buộc phải xin việc một cách bất hợp pháp. Nhưng đa số chủ nhà hàng khá dễ dãi trong việc nhận người vì những job trả lương thấp như thế, dân địa phương chê không thèm làm, nên họ phải tuyển người từ Ba Lan và Bồ Đào Nha sang Canada để làm những job thấp nhất của xã hội…

  Những người bạn cùng share phòng 2 năm đầu đại học 73-74 với Thụy ở Montreal gồm – Lê P. Vy (bố là đại tá tham mưu tưởng trường bộ binh Long Thành) và Huỳnh C. Hưng – là hai cựu HS Pétrus Ký và Tôn T. Q. Tùng- Taberd Terminal C (bố là trung tướng Tôn T. X – tư lệnh vùng 1 chiến thuật trước 75). Các bạn sinh viên cùng phòng đặt ra luật lệ là mỗi ngày có một người nấu cơm chiều cho 4 người và thay phiên nhau làm việc lặt vặt khác như rửa bát và dọn phòng sạch sẽ.

Ngoài việc học và làm việc part-time, mỗi tối thứ năm, thứ sáu và cuối tuần để kiếm tiền ăn học anh du học sinh không còn gì thú bằng là ngồi rung đùi nghe nhạc Trịnh Công Sơn với Khánh Ly, nhạc Hoàng Thi Thơ với Sơn Ca và nhạc Phạm Duy với giọng ca truyền cảm của Lệ Thu mỗi khi xong cơm chiều. Có ngày siêng năng hơn thì lội bộ sang câu lạc bộ công viên đại học để xem tivi, nhất là từ đầu tháng 3 năm 1975 các anh đều bách bộ mỗi tối đến campus trường để xem tình hình chiến cuộc Việt Nam…. Thụy nhớ mỗi khi đi học về các anh ùa đến thùng thơ để xem thơ người thân và bạn gái từ Việt Nam gửi qua như những trẻ thơ trông quà của mẹ mỗi khi mẹ đi chợ về. Đấy là niềm vui duy nhất của đời sinh viên du học thời ấy…Ngày đó không có Nintendo, computer game hay PS4 để khuây khỏa như ngày nay. Trao đổi thư từ mất rất nhiều thì giờ chứ không như ngày nay với Yahoo Messenger, Tango, Skype, Facebook, Viber, cellular phone, vv chỉ cần vài giây thì đã nói chuyện trực tiếp với bạn bè thân thuộc. Từ thuở bé đến giờ Thụy chưa bao giờ biết làm bếp là gì. Thế rồi các anh cũng phải tự biến chế theo khả năng tưởng tượng của từng đứa. Nấu phở gà ăn với mì sợi spaghetti, kho gà xào gừng với nước mắm nhập từ Hong Kong mặn như muối…Vì muốn tiết kiệm tiền bạc tối đa nên sinh viên thời ấy hầu như mua gà và lòng gà “on sale” để tiêu thụ…

Từ tháng 11 năm 73 đến tháng 3 năm 75 Thụy và Hoàng vẫn liên lạc với nhau qua thư từ. Kể cho nhau nghe những vui buồn cũng như những sự khó khăn trong cuộc sống, việc học hành nơi xứ lạ quê người… Rồi chuyện tình cảm của Thụy và Hoàng cũng tiến xa hơn trong mối tình thật trong sáng và học trò….

Khi sang Canada Thụy cảm thấy hơi đơn độc vì thời đó đa số du học sinh là con cái nhà giàu hay quyền thế ở Sàigòn CÔCC (Con Ông Cháu Cha), đã có anh hay chị du học trước nên không bỡ ngỡ như Thụy. Vì thế trong thâm tâm anh lúc nào cũng có mặc cảm thua xúc bạn bè.

Giữa tháng 3 năm 75 là lúc các sinh viên chuẩn bị thi Final exams cuối năm thứ 2 đại học Montréal trong lúc quân miền Bắc tràn qua sông Thạch Hãn xuyên qua cầu Hiền Lương để bắt đầu cuộc tổng tấn công miền Nam. Mỗi ngày nhóm nhỏ sinh viên VN đều theo dỏi tình hình thời sự nóng bỏng trên đài TV, ngày ấy chưa có CNN nhưng là CBS, ABC và BBC London. Mỗi khi tỉnh nào mất vào quân BV thì họ tô màu đỏ thê lương trên bản đồ hình chữ S...Từ ngày 13 tháng 3 đến 29 tháng 4 chỉ vỏn vẹn hơn 1 tháng rưỡi mà vết loang màu đỏ lan dần xuống tận đồng Bằng sông Cửu Long...Các anh sinh viên không sống trong sự sợ hãi hay kinh hoàng vì cuộc di tản nhưng các anh tỏ ra rất lo lắng cho số phận người thân và người thương kẹt lại ở VN. Hơn nữa, các anh lúc nào cũng phập phồng lo lắng khôn nguôi vì không biết người thân và nhân dân miền Nam sẽ sinh sống ra sao dưới chế độ mới...và các anh là những sinh viên lưu lạc tha hương trên đất người sẽ ra sao và làm gì để sống với nguồn tài trợ từ gia đình bị cắt đứt vĩnh viễn từ đây. Từ khi lên 17 Thụy đã sống xa cha mẹ, ăn học hầu như tự lập cho nên bi kịch tháng 4 năm 75 không làm xáo trộn cuộc sống du học của anh cho lắm như những sinh viên khác…

Tháng 3 năm 75 Thụy nhận bức thư cuối cùng của Hoàng. Anh trả lời và tâm sự rằng « có lẽ đây là bức thư cuối cùng Hoàng ạ. Thụy không biết Hoàng nghĩ thế nào về tình cảm của hai ta. Thụy không dám hứa hẹn lung tung. Nếu chuyện gì xảy ra Thụy chỉ xin ơn trên phù hộ cho Hoàng và gia đình luôn được bình an ». Thụy không biết Hoàng có nhận được bức thư cuối cùng ấy chăng !…

 Rồi biến cố tháng 4 năm 75 lại đến, Thụy và các anh sinh viên du học mất liên lạc với gia đình…

Vào những ngày đầu sau biến cố năm 75, Thụy xung phong làm thiện nguyện để tiếp đón và giúp đỡ những người đồng hương tị nạn đầu tiên đến Canada, với niềm hi vọng nhỏ nhoi là gặp lại người thân và người thương. Sau thời gian dài mà bóng dáng của sự mong đợi vẫn mịt mù, trong sự mong mỏi này Thụy gặp được một cô bạn trẻ mới người Sàigòn gốc Bắc và sau này trở thành hiền thê của Thụy, đây là niềm vui sau sự thất vọng dài không gặp được người thân thương.

Trong lòng Thụy luôn buồn phiền vì mất tin tức của người bạn gái, và mất liên lạc với gia đình, người thân. Những người tị nạn đầu tiên đến Canada theo đường hàng không đa số là người bắc, gia đình có quyền thế khá giả hay gia đình sĩ quan cao cấp trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Thụy gặp những anh đại tá không quân Nguyễn Văn H – phi trường Bình Thuỷ, anh trung tá không quân Trần Nhật T – căn cứ Biên Hòa, thiếu tá không quân Vũ Tất T – huấn luyện viên trường Không Quân Đồng Đế Nha Trang và trung uý Đinh Vỹ gặp tôi ở trại tạm cư Longue Pointe, Montréal vào những ngày đầu, họ xầm xì và hỏi ngay Thụy: ” Nhìn anh rất giống tài tử Nguyễn Chánh Tín nhưng sao anh gầy thế hay là anh là em của tài tử này?”.

Thụy vội trả lời rằng “các anh lầm rồi Thụy không phải là em mà cũng không phải là tài tử Nguyễn Chánh Tín. Thụy là dân Sóc Trăng thứ thiệt đấy mấy anh ạ”.

Từ đó Thụy làm quen mấy anh sĩ quan không quân, đề nghị các anh về sống chung và share phòng với anh sinh viên nghèo. Các anh dạy Thụy uống bia để khuây khả và nhậu nhẹt đến khuya mỗi cuối tuần tại apartment, nơi anh đang ở. Ở chung với các anh không quân hai năm cho nên Thụy biết rất nhiều sĩ quan không quân và hải quân vùng Montréal. Những buổi nhậu nhẹt như vậy các anh bàn về những vụ phi hành với những cái chết nhẹ như đường tơ kẽ tóc hoặc chuyện các anh bay lượn trên không trung rồi bất thần đâm ù xuống để làm oai với các cô đào đi bộ dưới đất...Và qua sự quen biết này là mối liên đới cho Thụy biết được nhiều người khác, anh quen rất nhiều các sĩ quan không quân và hải quân trước 75 như anh Hùng, anh Huê, anh Kiệt, Lập và Thọ. Qua anh Hùng Thụy cũng làm quen được chị ca sĩ Hà Thanh, có chồng là bác sĩ Kim, Hùng em trai bác sỹ này cũng là sĩ quan hải quân. Trong ba anh bạn sĩ quan không quân có một anh gọi ông Nguyễn Tấn Đời bằng cậu. Vì thế Thụy có dịp gặp mặt và trò chuyện với ông Đời ở Montréal...

Cuộc chiến đã qua hơn 50 năm nhưng những đau thương dân tộc từ đó vẫn tồn tại trong trí nhớ mỗi người chúng ta. Nỗi đau thương sâu đậm nặng nhẹ tùy thuộc vào hoàn cảnh rời khỏi Việt Nam của từng người. Rất nhiều người tị nạn sang ngoại quốc dở khóc dở cười vì gia đình ly tán. Theo ấy cũng có nhiều cuộc tình tan vỡ. Hình ảnh của những người chiến binh cùng một chiến tuyến phơi thây nơi trận địa, những người bị đưa đi học tập cải tạo chết trong tù, những người dân vô tội đã nằm xuống trong rừng sâu hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do vẫn chưa phai mờ trong trí nhớ chúng ta…

                                                                ---oOo---

Vài năm gần đây Thụy có dịp trở về Sài gòn thăm gia đình. Sẳn tiện anh lấy máy bay lên thăm Đà Lạt để mong tìm lại một dấu vết nho nhỏ nào đó còn sót lại trong ký ức. Đà Lạt nhiều thay đổi quá. Nhiều người bạn anh thất vọng. Họ thất vọng vì Đà Lạt phát triển lộn xộn không có kế hoạch, rừng Đà Lạt bị tàn phá, Đà Lạt không còn lạnh như xưa, Đà Lạt không còn sương mù. Đà Lạt bây giờ chỉ còn những nhạt nhòa, lãng đãng trong tận cùng trí nhớ. Hồ Than Thở, rừng Ái Ân, vườn hoa Bích Câu, đồi Kỳ Ngộ. Cô nữ sinh Trung học Bùi Thị Xuân hay chàng trai Võ Bị Đà Lạt. Chiều tím hay thung lũng hồng. Những thoáng ngất ngây nhìn "mắt em dìu dịu buồn Tây phương" hay mấy lần lạc loài nhìn lại "phố núi cao; phố núi đầy sương; phố núi cây xanh; trời thấp thật buồn...".



Đối với Thụy Đà Lạt ngày nay không còn đẹp và thơ mộng như Đà Lạt ngày nào trong trí ức Thụy nữa. Đà Lạt cũng thăng trầm theo vận nước. Thụy tản bộ từ chợ Hòa Bình mà ngày nay họ đổi lại là chợ Đà lạt, đi ngược lên phía bắc đường Bùi Thị Xuân nhưng anh không tài nào nhận ra cảnh vật xanh xanh hai bên đường như ngày xưa nữa…mà chỉ toàn quán trọ, hotel, quán nhậu, spa, quán café nằm san sát nhau, v.v...Thụy nhìn Đà Lạt bằng trái tim không bằng con mắt. Thụy trót yêu Đà Lạt. Đà Lạt thế nào Thụy vẫn yêu vẫn mến. Vài ngày sau anh trở về Sài gòn nhưng trong lòng còn nuối tiếc vì chưa gặp lại người xưa trước khi về lại Canada.

Những ngày cuối cùng tại Sài gòn Thụy tình cờ được một anh bạn cùng quê Sóc Trăng ngày xưa, cũng là cựu HS Hoàng Diệu Sóc Trăng mời đi dự đám cưới con gái anh ấy ở một nhà hàng lớn Sài gòn. Con gái anh ấy cũng vừa học xong ở Úc về VN lấy chồng, là bạn du học ở Canada. Họ sắp xếp cho Thụy ngồi ăn chung với các bạn trẻ mới từng du học ở Montreal và Úc. Họ trò chuyện vui vẻ bỗng Thụy nhìn thấy một phụ nữ Việt kiều trạc tuổi anh đang nhìn anh từ bàn đối diện mà không chớp mắt. Thụy cũng thấy hình như cô ấy có nét quen quen. Thụy đánh lều dọa dẫm đến hỏi thăm để biết là ai. Nhìn thấy Thụy, người phụ nữ nhẹ nhàng ngỏ lời trước:

-         Thưa có phải là anh Thụy đây không ạ.

-         Dạ vâng sao cô biết tôi.

-         Anh quên Ngân học đại học Kinh Doanh Đà Lạt năm 73 hay sao. Ngân đây.

-         Ồ Ngân đấy à. Hình như Ngân có gầy hơn xưa nên tôi không nhận ra. Thụy xin lỗi. Đã hơn 45 năm rồi còn gì. Bây giờ già rồi đầu óc có hay lú lẫn một chút, tôi xin lỗi Ngân nhe.

-         Anh vẫn còn cao ráo rất phong độ, nước da ngâm ngâm khuôn mặt phúc hậu như ngày xưa và vẫn đẹp trai…

Thật quá đỗi ngạc nhiên thì ra trái đất tròn. Gặp lại nhau gần 45 năm trời còn gì, Ngân nửa khóc nửa cười khi gặp lại Thụy. Cô có hơi ngậm ngùi khi kể lại truyện đời từ lúc học xong năm thứ 2 ở ĐH Kinh Doanh Đà Lạt thì biến cố 30-04-75 ập đến, cũng như nhiều người VN khác cô cùng gia đình di cư sang Úc. Cô tiếp tục trở lại học ngành Kinh Doanh rồi ra trường làm Kế toán bên ấy. Một thời gian sau đó cô lấy chồng và có một đứa con trai, hiện cũng đang ngồi chung bàn tiệc với cô. Thụy hỏi Ngân « Thế ông xã Ngân đâu ». Ngân nghiêng nghiêng cúi đầu trầm ngâm yên lặng vài giây rồi trả lời anh một cách nghẹn ngào «Tình duyên tụi này không được trọn vẹn và hạnh phúc lắm anh à. Tụi Ngân đã chia tay hơn 10 năm nay. Bây giờ Ngân ở với đứa con trai. Nó ra trường và đang đi làm bên Úc. Ngân vừa được phẫu thuật xong bên Úc. Mẹ con Ngân về VN trước để dưỡng bệnh đồng thời dự tiệc cưới của cô bạn học cùng lớp với nó ». Hai người tiếp tục hàn huyên tâm sự qua loa trong phòng ăn ồn ào với ánh sáng nửa mờ nửa tỏ đến khi khách về gần hết, Thụy xin tạm chia tay Ngân và trao đổi số phone để liên lạc.

Sáng hôm sau Ngân gọi điện cho anh từ lúc hừng sáng và hẹn anh đi ăn điểm tâm ở một quán café vườn cho tiện việc tâm sự vì không muốn gặp ai khác. Gặp Thụy, Ngân chào hỏi và kể lể mọi chuyện từ lúc anh rời đại học Đà Lạt ra đi không một lời từ giã, công việc sinh sống và gia đình bên Úc cho đến bây giờ. Gần đây nàng mắc chứng bệnh đàn bà nên sức khỏe hơi yếu. Tay cầm tách càfé nghe nàng kể, trong giọng nói anh cảm nhận có cái gì đó hơi đắng cay và trách móc. Phải rồi nàng không trách móc anh sao được. Ngày xưa Thụy đã gieo hy vọng tình cảm vào nàng và « quất ngựa tri phong » không một lời giã từ. Thụy xin lỗi nàng. Anh dựa vào lý do là gia đình muốn anh đi du học để tương lai được sáng lạng hơn. Thụy tránh nói ra các chuyện tình cảm khác về các cô bạn gái thời trung học Hoàng Diệu Sóc Trăng ngày xưa vì nghĩ sẽ đem tới nhiều rắc rối chứ chẳng an ủi được cô nàng.

Những ngày sau đó ở Sàigòn Ngân vẫn gọi điện mời Thụy đi ăn nhằm mục đích để được nhìn thấy anh, cố gắng thuyết phục Thụy đi ăn sáng hay ăn trưa. Thụy cho nàng biết là bây giờ anh đã có gia đình, sống rất hạnh phúc ở Canada và cầu chúc Ngân sẽ sớm tìm lại một nửa của đời mình. Lần hội ngộ ngắn ngủi cuối cùng, nàng khẻ tai anh nói rằng « Ta biết nhau, hiểu nhau rồi mến nhau và không thể đến với nhau vì thiếu duyên nợ nên mỗi người chúng ta theo đuổi một con đường cho riêng mình. Thế nên Ngân chấp nhận ý niệm duyên tan - duyên hợp, mặc dù Ngân tin rằng duyên hợp là do con người tạo ra, và duyên tan cũng chính do con người đoạn tận nó. Tuy bây giờ sức khỏe Ngân hơi yếu, nếu sau này anh còn nghĩ đến Ngân thì khi về hưu anh hãy về Úc sinh sống, Ngân hân hạnh được nấu cơm cho anh…Nếu Ngân không có cái may mắn ấy thì ta sẽ tìm nhau vào kiếp khác. Ta vẫn cứ tìm nhau, Ngân tin rằng phía con đường Ngân đi sẽ có một người bước đến. Có chia ly ắt có hội ngộ phải không anh?»

Nguyễn Hồng Phúc

Revisited cuối năm 2024

 

 

 

 

 

 

 

 

 

FOR INFO – DON’T POST THE INCOMPLETE ARTICLE

**Love is always like that, you can't measure or calculate it. And love, whether given or received, has its price. It is not a trade, but a voluntary and unconditional offering. And so we seek each other not by sight, not by holding hands, but by a thought about each other. Finding each other in the transient world, seeing each other in the impermanent scenery, and loving each other in the fleeting thoughts... We seek each other in the length of longing, the days gone by are long dreams... To ease the longing of the waiting years. We seek...the memories within each other... (Extract from the poem by author Nguyên Nguyên) 

Although most overseas Vietnamese live relatively comfortably today – some live in poverty, some live quite well. But everyone has an undying longing for a time living in their beloved homeland of Vietnam. Nearly half a century has passed, and we deeply understand because who could have guessed that "one departure is one farewell"; among them are those who have permanently rested in the cold ground in a foreign land, they harbored dreams of seeing their beloved homeland again. There are also those who nostalgically remember their gentle first loves...

After passing the high school graduation exam in June 1973 with scores exceeding the standards of the Ministry of Education, Thụy applied to study in Canada. While waiting for the Ministry of the Interior to review his application, he applied to Phú Thọ University and Political Economy University in Đà Lạt. Thụy's family suggested that he go to Đà Lạt to study temporarily and get used to the cold climate before heading to Canada. So Thụy packed his bags and went to Đà Lạt alone to begin a new life as a university student. He rented a house near Hoà Bình market, not far from Bùi Thị Xuân street, for convenience to walk to the University of Political Economy. The convenience of food and drink was also a plus because it was near the center of Đà Lạt. The foggy and chilly city was very poetic but did not lack its romance. Back then, when people talked about Đà Lạt, they immediately thought of Xuân Hương Lake, Than Thở Lake, the twin-pine hill, Cam Ly waterfall, the Đà Lạt flower garden, etc. Walking from the University to the rented house was not too far. Thụy, with his somewhat romantic nature, liked to walk on the way to school to have a chance to see the Bùi Thị Xuân schoolgirls with their blue áo dài, rosy cheeks, and shy knitted sweaters, making them even more poetic. From afar, rows of Đà Lạt cadet students in their white uniforms strolled through the pine hills of Đà Lạt. Among the students studying at the Đà Lạt National Military Academy, Thụy knew a few friends who studied with his brother. How could one forget the afternoons, sitting and looking at the serene blue surface of Than Thở Lake, or more delightfully enjoying the gentle, white streams of Cam Ly waterfall, roaring through the heart of the city, which had stirred the souls of many poets and musicians. Around Cam Ly waterfall were the horse-renters...like the Mexican cowboys... Đà Lạt had those end-of-week afternoons, hurrying back and forth, eagerly searching for a rendezvous point, a moment of close affection, or bewilderment before a farewell. Memories of Đà Lạt are where so many romantic love stories, and dreamy dates are recorded, and also the starting point of...a love affair, perhaps?. Dr. Yersin, who founded it by creating this ideal city, was also tired of a love story of his own. The love story of a murder by the dreaming lake of Than Thở. Đà Lạt has become a romantic place for travelers from all four corners of the world. One can never forget this magical city in love and nostalgia.

After the first economics class at Thụ Nhân lecture hall, which Thụy remembered was CTKD10 (1973), a tall, sun-kissed, and charming girl from Nha Trang of Northern origin sitting next to Thụy asked: "Ngân came to class late today so she couldn't take all the notes. Could you lend Ngân your notes?" "Yes, I am willing to." Thụy replied, slightly surprised. Since then, Ngân found ways to get acquainted, and they went to school together and lived on the same street. They attended classes and came and went like classmates, and he didn't think much of it, because after all, they were both from different places coming here to study, with no relatives in the area. I think it’s fair to exchange with each other to reduce the loneliness. After a few weeks, it became a habit, every morning Ngân would wait for Thụy in front of the lodging house to go to school together. Many times, he intentionally sneaked out the back door to avoid meeting Ngân, but things did not go as planned. Occasionally, on weekends, Ngân would invite Thụy to stroll along Xuân Hương Lake to find a quiet place to ask about difficult lessons or to eat chè at the Việt Hưng shop near Hòa Bình market, where they often sat quietly for hours, watching the main street of the city and the fluttering áo dài of Đà Lạt girls... Initially, out of respect for classmates, Thụy accepted the invitation to visit places to know how romantic Đà Lạt was, and it was also a good opportunity to review lessons. Occasionally, they brought their lessons to the pine garden in Đà Lạt to study. First steps into university, the courses on economics, accounting, psychology, the teaching methods of the professors, and the way of absorbing lessons were entirely different from high school. Đà Lạt is a place for lovers. Thụy, being from the West, had never seen a pine tree, so whenever he saw the straight, green pines, he always felt a sense of longing. Xuân Hương Lake, Đà Lạt market, the villas with old French architectural styles, rows of corn, coffee gardens, strawberries... all added a green color of life to the hills. Looking around as if walking in Europe was the dream of Vietnamese students at that time. At the end of the fourth week, as usual after the class and strolling back from school to the lodging house, Ngân whispered: "Ngân will arrange to return to Nha Trang this Christmas to visit my parents, may I invite you to come along to meet them?" Thụy was a bit surprised by this sudden invitation and cautiously replied: "Let me think about it and get back to you later." Ngân's face seemed a bit sad because of his indifferent response, perhaps she guessed a part of Thụy's feelings for her. Although feeling a bit happy because a girl showed interest in him, Thụy didn't really want to get involved with any girls and especially not give them hope. Besides, as a student away from home and everything to focus on studying in a distant place, making new friends was normal, but he didn't expect that she would take it seriously and want to take their relationship further. The following week in early November, his family called him in Đà Lạt to inform him that his study abroad application was approved by the Ministry of the Interior, and he needed to return to Sóc Trăng urgently to complete the paperwork for a passport, submit the Canadian university acceptance letter, bank ID, etc. Thụy was confused and did not have the courage to go to Ngân's lodging house to say goodbye to her one last time. He thought she would be very disappointed when she no longer saw him to go to Đà Lạt University with her every morning. He took a flight from Đà Lạt to Sóc Trăng the next day. At the end of November 1973, Thụy prepared to leave for studying abroad in Canada, leaving behind all the sweet memories of his youth, including two high school friends from Hoàng Diệu, Sóc Trăng, named Hoàng and Viết Phượng. The two girls he had just met in the last school year 1971-72 at Hoàng Diệu, Sóc Trăng. Outwardly, Thụy looked quite handsome, gentle, and likable, so maybe he would have trouble with several girls.

Before leaving to Canada, Thụy rode his Honda to visit two high school friends from Hoàng Diệu, Sóc Trăng one last time. They met and casually chatted at length, asking about studies in Đà Lạt, future plans, etc., but Thụy was still reluctant to reveal his study abroad plans. Thụy was very cautious; he only announced something when he knew for sure it would happen. Hoàng's house was across from the Sóc Trăng hospital, not far from his own. But now, Thụy felt it was very far away. He accelerated his Honda while thinking deeply, not knowing how to tell Hoàng. What will life be like? How would I cope without seeing Hoàng? And how will she live in Vietnam? Thụy felt so lost as if everything was slipping beyond his understanding and control. When he stopped in front of Hoàng's house, she immediately asked: "Thụy, you just went to Đà Lạt in early October, but now it's only November, and you're back. Something must be wrong." Thụy looked around the house: it was empty as if everyone had gone out. Hoàng invited him in, and he replied casually: "Oh, I just missed home and friends, so I came back for a visit." "Have you visited Viết Phượng yet? She must be eagerly waiting for news," Hoàng probed, trying to gauge his feelings towards each girl. She continued, "Hoàng and the girls just started 12th grade in September, but many boys from our class either transferred out or joined the military..." Hoàng's questions were pointed. Thụy stayed silent for a moment to try to remember Hoàng's appearance, thinking this might be the last time. Hoàng's shiny long hair swept back, revealing her fair face with bright eyes. He suddenly saw the face as real, lively, and radiant... He noticed the broad forehead, long eyebrows. In those brief moments, he took in every detail, perhaps to imprint Hoàng's image in his heart and mind for the last time. He responded: "You girls aren't subject to the general mobilization order, but young men like us are scattered everywhere dealing with it. Some join the military, some continue studying to pass high school exams, and others become reserve soldiers. Hoàng, it's tough being a man, don't you understand?".

The two talked continuously, and Thụy shared stories about studying in the romantic land with its cold climate, but he did not dare to mention his new girlfriend Ngân, fearing the girls might misunderstand him... But he couldn't keep the study abroad plan a secret any longer. Seeing Hoàng happily talking, he couldn't bring himself to say goodbye. Finally, he had to reveal his plan to study abroad next week. He said: "This might be the last time we meet, Hoàng..." "Why is that? You just came back from Đà Lạt, is there something wrong up there, and why is this the last time?" "To be honest with you, Hoàng, I applied to study abroad in Canada, but I wasn't sure if I would be accepted, so I never mentioned it to anyone. Now that the application has been approved, I'm back home to prepare and say goodbye before I leave. We'll be together now, but soon, tomorrow, and forever we won't have a chance to meet again." "That's good news, why do you seem so sad? The future will be bright for you." "Not really, Hoàng." "Why?" "You know, my family is not well-off. We are not from a wealthy or influential background. Supporting me to study at Đà Lạt University or Phú Thọ Technical University was already costly. Going to Canada will be ten times more expensive. I don't want my family with nine siblings to tighten their belts to save money for me to study abroad. I persuaded my parents to gather enough money for my ticket to Canada, and I will take care of the rest. I know I will have to struggle and face a challenging new life in a foreign land, without any relatives or parents to care for me day and night, handling studies, health, etc. My parents understood my explanation but still worried about their 18-year-old son who would be self-sufficient in a strange land. Hoàng, you would understand my adventurous situation..." "Let's part here for now, and remember to write often to share your life experiences abroad, the good and the bad, successes and failures. I wish you a safe journey and much luck.".

Silently, Hoàng's eyes welled up with tears. He quietly turned away for a moment to avoid seeing the final farewell scene, feeling a deep sadness, leaving behind an unspoken first love... "Thụy, have a safe journey and remember to write to me..." On the day Thụy departed from Tân Sơn Nhất Airport, it was a simple farewell with only his parents, his eldest brother, and three friends of his brother named Trần Hán Lương, a university friend from Minh Đức, and Phước attending. The farewell of Thụy's family was so sad, while the wealthy families of Saigon had cheerful gatherings as if for upcoming reunions abroad. After completing customs procedures, Thụy prepared to board the Air France B727, but a captain and a few policemen stopped him at the gate and demanded his passport. Glancing at the passport, the captain shook his head and said, "This is a fake passport." Thụy felt annoyed by these dirty tricks to extort money until the last moment before leaving his homeland. He calmly replied, "Sir, this passport was officially issued by the Ministry of the Interior of Vietnam. If you say it is fake, then the Ministry of the Interior is fake too, I guess." The policemen, seeing that the argument with Thụy was going nowhere, eventually let him board the plane. It was truly a blatant intimidation and bribery in broad daylight. On the plane, Thụy still remembered many girls studying abroad crying for a long time. When arriving in Paris to change planes to Montréal, most European students got off, leaving only Thụy and another Vietnamese student. While waiting to change planes, Thụy approached the Vietnamese student and learned that his name was Huỳnh Công Hưng, and he was also studying at the same school as Thụy in Montréal. Hưng would be picked up by his elder brother at the airport. Fortunately, Thụy would not get lost in Montréal, and from then on, Hưng became a close friend, sharing a room with Thụy for the first two years of university. Upon arriving in Montréal, the first thing Thụy did was to find lodging and then start exploring Montréal and observing job opportunities for his livelihood. He found a Vietnamese restaurant in downtown Montreal – Văn Lang. He quickly went in to ask for a job, and the young restaurant owner warmly welcomed him and spoke to Thụy in French:

"What can I help you with?" Thụy immediately replied:

"Sorry, do you speak Vietnamese?" "Ah, hello. From afar, I thought you were Spanish."

 "No, I'm Vietnamese and just arrived in Montréal two days ago. I wanted to ask if you need any help here. I'm studying abroad on my own and looking for a part-time job to cover my daily living expenses and tuition fees."

 "Yes, I understand. Lucky for you, we need a busboy for the night shift. If you agree, you can start tomorrow at 6:00 PM." So, luck was on his side, as Thụy wouldn't have to worry about starving in a foreign land.

On May 20, 1974, the owner told Thụy that the day was very important and advised him to dress neatly because many distinguished guests would be attending. As the owner had said, many guests dressed in special attire attended that night. The restaurant was decorated with a red flag with a yellow star in the middle and a large picture of Uncle Ho in the dining room. Thụy realized that day was the celebration of Uncle Ho's birthday by patriotic students. That was also the last day he worked at Văn Lang restaurant. Thụy then got a job as a waiter at a French restaurant, La Crêpe Bretonne. In the first two years of studying abroad with a student visa, self-financed students were not allowed to work, so they had to seek illegal employment. However, most restaurant owners were lenient in hiring because local people didn't want low-paying jobs, so they had to recruit people from Poland and Portugal to do the lowest jobs in society. Thụy's roommates during the first two years at university in 1973-74 in Montreal included Lê P. Vy (whose father was a colonel at Long Thành Infantry School) and Huỳnh C. Hưng – two former students of Pétrus Ký High School and Tôn T. Q. Tùng – Taberd Terminal C (whose father was Lieutenant General Tôn T. X, Commander of the 1st Tactical Zone before 1975). The roommates set a rule that each day one person would cook dinner for four people and take turns doing other chores like washing dishes and cleaning the room.

Besides studying and working part-time every Thursday, Friday, and weekends to earn money for school, the international student found nothing more enjoyable than relaxing and listening to Trịnh Công Sơn's music with Khánh Ly, Hoàng Thi Thơ's music with Sơn Ca, and Phạm Duy's music with the emotional voice of Lệ Thu after dinner. On more energetic days, he walked to the university park club to watch TV, especially from early March 1975 when they walked to the campus every evening to follow the news about the Vietnam War. Thụy remembered when they came home from school, they rushed to the mailbox to see if there were letters from family and girlfriends in Vietnam, just like children waiting for their mother's gifts from the market. That was the only joy for international students at that time. There were no Nintendo, computer games, or PS4 to entertain them like today. Exchanging letters took a lot of time, unlike now with Yahoo Messenger, Tango, Skype, Facebook, Viber, cellular phones, etc., which only take a few seconds to communicate directly with loved ones. From a young age, Thụy had never known how to cook. Eventually, they had to create their own meals based on their imagination. Cooking chicken pho with spaghetti noodles, braising chicken with ginger and salty fish sauce from Hong Kong… To save money, students at that time mostly bought "on sale" chicken and chicken innards. From November 1973 to March 1975, Thụy and Hoàng still kept in touch through letters. They shared their joys and difficulties in life and studies in a foreign land… And their relationship also progressed into a pure and innocent love. When he came to Canada, Thụy felt a bit lonely because most international students at that time were children of wealthy or powerful families in Saigon (CÔCC - Con Ông Cháu Cha). They had siblings who had studied abroad before, so they were not as bewildered as Thụy. Therefore, he always felt inferior to his friends. In mid-March 1975, students were preparing for final exams at the end of their second year at the University of Montreal while the Northern army crossed the Thạch Hản River through Hiền Lương Bridge to start the general offensive in the South. Every day, a small group of Vietnamese students followed the hot news on TV. At that time, there was no CNN but CBS, ABC, and BBC London. Each time a province fell to the North Vietnamese army, they would color it red on the map of Vietnam… From March 13 to April 29, within just over a month and a half, the red stain gradually spread down to the Mekong Delta… The students were not living in fear or panic due to the evacuation but were very worried about the fate of their loved ones and people trapped in Vietnam. Moreover, they were constantly anxious because they didn't know how their loved ones and Southern people would live under the new regime... and they, as international students in a foreign land, would survive and make a living without any financial support from their families anymore. Since turning 17, Thụy had lived away from his parents, studying almost independently, so the tragedy of April 1975 did not disrupt his study abroad life as much as other students…

In March 1975, Thụy received Hoàng's last letter. He replied and confided, "Perhaps this is the last letter, Hoàng. I don't know how you feel about our relationship. I don't dare make any empty promises. If anything happens, I just hope that the divine will bless you and your family with peace." Thụy didn't know if Hoàng received that last letter... Then the events of April 1975 unfolded, and Thụy and the other international students lost contact with their families... In the early days after the events of 1975, Thụy volunteered to welcome and help the first refugees arriving in Canada, with a small hope of reuniting with loved ones. In this hopeful wait, Thụy met a new young friend from Saigon with Northern roots, who later became his wife. This was a joy after the long disappointment of not being able to find loved ones. Thụy was always troubled by the loss of contact with his girlfriend and family. The first refugees to arrive in Canada by air were mostly from the North, from wealthy or influential families, or high-ranking officers in the Army of the Republic of Vietnam. Thụy met Colonel Nguyễn Văn H – Bình Thủy Airport, Lieutenant Colonel Trần Nhật T – Biên Hòa Base, Major Vũ Tất T – instructor at Đồng Đế Air Force School in Nha Trang, and Lieutenant Đinh Vỹ at the Longue Pointe resettlement camp in Montreal. They whispered and immediately asked Thụy: "You look very much like actor Nguyễn Chánh Tín, but why are you so skinny? Are you his brother?"

Thụy quickly replied, "You guys are mistaken, I am neither the brother nor the actor Nguyễn Chánh Tín. I am a true Sóc Trăng native." From then on, Thụy got to know the air force officers and invited them to live together and share a room with the poor student. They taught Thụy to drink beer to ease his mind and drank until late every weekend at the apartment. Living with the air force officers for two years, Thụy got to know many air force and navy officers in the Montreal area. During those drinking sessions, they talked about flights with near-death experiences or their daring stunts to impress the girls walking on the ground. Through these connections, Thụy got to know many other people, such as officers Hùng, Huê, Kiệt, Lập, and Thọ. Through Hùng, Thụy also met the singer Hà Thanh, whose husband was Dr. Kim, and Hùng, the brother of this doctor, was also a naval officer. Among the three air force officer friends, one called Mr. Nguyễn Tấn Đời "uncle," allowing Thụy to meet and talk with Mr. Đời in Montreal. The war has been over for more than 50 years, but the national suffering from that time still exists in our memories. The intensity of the pain varies depending on each person's circumstances when leaving Vietnam. Many refugees came to foreign countries with mixed emotions due to family separation. Along with that, many love stories were broken. The images of soldiers who died on the battlefield, those who died in re-education camps, innocent people who died in deep forests, or became prey for sharks in the sea on their way to freedom, have not faded from our memories...

 

 

 

 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual