Hằng năm Tết đến, nhà nhà đều chuẩn bị đón Xuân. Người
Việt ta thường lo sắm Tết từ đầu tháng chạp và chào mừng năm mới không chỉ có
ba ngày như phần đông các nước Tây phương mà đối với dân ta ‘ Tháng giêng là tháng ăn chơi ‘ sau một năm làm lụng vất vả. Chủ yếu là nông nghiệp, ở
thôn quê, mùa gặt đã xong, ai cũng muốn thoải mái nghỉ ngơi, tổng kết thu hoạch,
rút kinh nghiệm năm vừa qua, đặt niềm tin hy vọng vào năm tới. Hơn thế nữa với
truyền thống đẹp mang bản sắc dân tộc có lý có tình có hậu ‘ Cây có cội nước có nguồn ‘, ‘ Ăn trái nhớ kẻ trồng cây ‘, dân ta có tập tục tiễn biệt năm cũ đón mừng năm mới
thật sáng tạo thơ mộng hòa đồng với người hòa hợp với đất trời.
Tết ta theo âm lịch nên luôn luôn không bao giờ có trăng.
Tùy tháng chạp thiếu đủ, ngày cuối năm sẽ là 29 hay 30 trái với Âu Mỹ theo
dương lịch nên đêm giao thừa có khi lơ lửng vầng trăng treo. Tập tục đón Xuân một
phần ảnh hưởng do đêm trừ tịch không có bóng dáng chị Hằng nầy. Cuộc kết thúc
nào cũng thường có hai mặt tích tiêu. Nó biểu hiện cho sự vỉnh viễn ra đi và
ngược lại tia sáng ở cuối đương hầm, niềm hy vọng vào tương lai. Đêm tối cũng
làm cho ta hoang mang lo âu bồn chồn tưởng tượng đến bao chuyện không may và
cũng là thời gian liều thuốc cần thiết Thần ngủ ru ta vào giấc mơ an dưỡng. Đây
còn là điểm cuối xuống hàng sang đoạn qua trang của một ngày hay năm, giới hạn
giữa ngày và đêm, tối và sáng, cũ và mới âm dương.
Xưa kia, người Việt ta tin vào Thần quyền, những đấng khuất
mày khuất mặt linh thiêng nên có những tập tục thờ cúng sùng bái đa dạng phong
phú theo bản năng tự nhiên, bảo thủ thường không nặng tính khoa học thành rườm
rà mơ hồ khó tin khó giải thích làm người đời sau cho là mê tín dị đoan.
Thật ra với nếp sống chạy đua nước rút của thời đại ngày
nay, thời giờ là tiền bạc, tất nhiên là nên đơn giản hóa mọi việc để thích
nghi. Nhưng không thể vứt bỏ hết mọi thứ vì những tập tục cổ truyền vẫn là dấu
mốc quá khứ, chứng tích hữu hình, tâm linh của ông bà ta theo dòng lịch sử dựng
và giữ nước. Nhờ đó ta mới truy nguyên ra được tâm tư nguyện vọng, lòng yêu nước,
óc tiến thủ, sáng kiến, quyết tâm khai phá của một dân tộc hiếu hoà chỉ muốn sống
còn trong độc lập tự do truyền lại cho thế hệ mai sau.
Vốn gốc là dân đi khai phá khẩn hoang lập nước, phải
tranh đấu triền miên với khí hậu ‘ sơn lam chướng khí ‘, thiên tai, giữ đất giành độc lập tự do, kinh nghiệm
máu xương đó cũng góp phần cốt yếu cho tình yêu quê hương, gia đình, tính biết
tiên liệu, vui hưởng nhất là ôn cố tri tân luôn nhớ công lao của tổ tiên cùng
nhau nhìn về phía trước. Tết quả là cơ hội đặc biệt hòa hợp với thiên nhiên thực
hiện tổng hợp các thành tố trên phân biệt hẵn thế nhân với sinh vật khác trên
quả địa cầu.
Thử lướt qua không khí Tết khắp nơi trên thế giới, phải
công nhận là Tết ta rộng rãi quá, làm cho con người xích lại gần nhau hơn, tìm
lại chính mình, nhớ đến cội nguồn, hòa đồng thân thiện.Trẻ em Tây phương chẳng
hạn, với nền văn minh cao, đầy đủ tiện nghi vật chất, thế mà chắc chắn là không
bao giờ có cái tâm trạng háo hức được quây quần đoàn tụ đùm bọc đón Xuân như trẻ
em Việt ta. Trẻ em Âu châu có thể còn thích thời gian lễ Giáng sinh hơn vì Tết
thường dành cho người lớn. ‘ Nói có sách mách có chứng ‘, vậy chúng ta hãy cùng nhau hồi tưởng tìm hiểu một
vài tập tục đón Xuân trong mỗi gia đình mà ngày nay phần đông ít ai còn nhớ đến
hoặc chỉ làm theo tập tục. .
Thật
ra ít có dân tộc nào mà tinh thần đón Xuân cao và lâu như ta. Từ đầu tháng chạp
cuối năm là đã lo chuẩn bị rồi, tùy theo hoàn cảnh gia đình như lập chương
trình như đưa con về thăm nội ngoại, quà biếu xếp lớn xếp nhỏ, gia đình họ
hàng, quà ‘ lì xì ‘ cho con cháu của mình, bạn bè và cả hàng xóm láng giềng.
Ít có ai đi du lịch chơi xa trong thời gian nầy khác hẵn
với người Âu Mỹ chỉ chờ được dịp nghỉ là ‘ bồng bế nhau lên nó ở non ‘ dự những cuộc thể thao với tuyết băng về mùa Đông, du
lịch Cruise trên biển cả ở các quốc gia có nắng.
Tết của ta cũng có thỉ có chung, kéo dài từ tháng chạp cuối
năm sang năm mới cả tháng giêng. Chúng ta chẳng những vui hưởng chung với
nhau mà còn biết hòa đồng với thiên
nhiên sinh vật khác và thanh cao mầu nhiệm hơn với bên kia thế giới chúng sinh,
cõi vĩnh hằng vô lượng.
Không giải
thích cụ thể rõ ràng rành mạch được những vấn đề tâm lý trừu tượng vô hình siêu
nhiên, phải phục ông cha ta đã khéo dựa vào cái không không ấy thành có như trừ
trừ thành cộng, những chuyện mà ngày nay thế hệ trẻ cho là hoang đường mê tín
thành những bài học hữu dụng. Dựa vào kinh nghiệm sống phải đương đầu với bao
thiên tai về phong thổ thời khí, khai hoang lập ấp dựng bờ mở cõi, săn đuổi thú
dữ để sống còn gầy dựng, tổ tiên ta phải thông minh kiên trì gan dạ mới tạo
đươc cho con cháu hậu sinh một giang sơn gấm vóc hình chữ S ngày nay.
Tập tục rước ông bà về với con cháu chiều
cuối năm và tiển đưa mùng 4 hoặc mùng 7 đầu năm chứng tỏ lòng nhớ ơn của một
dân tộc biết đoàn kết sống theo bước tiến của cha ông. Trước khi muốn ai đến
nhà mình thì mình phải trân trọng đến mời, đó là học phép xử thế. Lễ tảo mộ thường
bắt đầu từ nửa tháng chạp là bằng chứng cụ thể rõ ràng con cháu chẳng những lịch
sự mà còn hiếu thảo ‘ giẫy mả ‘ sơn phết lại mộ phần cơ ngơi của người quá cố để cùng
nhau đón Xuân. Tổ tiên ta há chẳng đã hé mở cánh cửa văn minh cho chúng ta rồi
sao ? Phép xã giao ‘ tại gia ‘ đã được truyền dạy trước từ lâu.
Vì thế người ngoại quốc sẽ lấy làm ngạc nhiên khi thấy
trong những ngày đầu năm ông bà về thì bàn thờ khói hương nghi ngút, sáng tối
dâng trà, trưa chiều cúng cơm, giàu thì mâm cao cỗ đầy, nghèo thì tùy theo hoàn
cảnh của mỗi gia đình. Thật ra, đây chỉ là dịp để bồi dưỡng thêm sức, gặp mặt
vui chơi sau một năm làm việc mệt nhọc, xóa bỏ xích mích giận hờn. Có ở xa đâu
đi chăng nữa, ‘ Tết nhứt ‘ cũng cố sắp xếp về thăm nội ngoại. Có chứng kiến cảnh
đoàn tụ quây quần bên nhau của những người cùng huyết thống, ta mới cảm nhận được
bài học triết lý sâu sắc của cha ông tề gia, đoàn kết nhỏ trước rồi sau đó
mới có đoàn kết lớn, trị quốc, bình thiên hạ được. Là hậu bối của các bậc tiền
hiền uyên thâm quảng đại như vậy phải là do ơn may vì không ai có thể chọn trước
được cha mẹ mình.
Thi vị và huyền bí làm sao huyền sử Con
Rồng cháu Tiên rạng ngời hồn dân tộc! Thật ra chưa ai thấy Rồng cũng như
Tiên, nhưng ai cũng cho rằng rồng có sức mạnh như vũ bão, tiên đẹp tuyệt trần.Trên
thế giới hầu như dân tộc nào cũng có truyền thuyết về việc lập quốc thường được
biểu hiện qua một hình ảnh nào đó. Pháp ngoài lá cờ tam tài xanh trắng đỏ thêm
lá cờ với hình vẽ ‘ con gà trống ‘ để mỗi lần đi dự thi tranh giải thường mang theo phất
cao hầu nói lên sự có mặt của mình và khích lệ ba quân, thắng trận là đầy ấp
trên trang đầu các tờ báo hình ảnh chú gà trống giương cánh gáy ò ó o. Nhật hảnh
diện ví mình là con cháu Thái dương Thần nữ nên trên lá quốc kỳ có vòng tròn đỏ
biểu hiệu mặt trời.
Do đó tập tục dựng nêu ăn Tết ăn
chè ngày nay không còn nữa, trước nhà vào chiều cuối năm cũ và hạ nêu chiều
mùng 7 đầu năm mới quả là một sáng kiến thật độc đáo sáng tạo văn minh của cha
ông. Người ta dùng cây tre thật thẳng cao, đốt to dài, tuốt hết gai cành, tùy
vùng, chung chung là treo trên ngọn một mảnh vải đỏ, bên dưới một giỏ đựng trầu
cau, một lá bùa Bát quái. Đó là cách biểu hiện ranh giới ngăn cách thế giới người
với ma quỷ, chứng nhận nhà nầy có chủ hợp pháp, có lý lịch tốt, tà ma ‘ quyền lực đen ‘ không được quấy phá đi chỗ khác chơi, vì nhà nầy thuộc
về con dòng cháu giống đúng con cháu Rồng Tiên
Như vậy tổ tiên ta há chẳng đã đi tiên phong trong việc dựng cột treo quốc
kỳ đó sao ?
Người Ấn độ xem bò
là con vật linh thiêng, ta không thờ các con vật nhưng cũng tránh không gọi
đích danh, như cọp là ông Ba mươi, ông Hổ, con rắn là ông Dài,… Một tập tục ‘biết phải quấy’ khác là không quên ơn thần
linh liên quan trực tiếp đến cuộc sống nên trong ngày Tết có cuộc đưa Táo quân
Thần bếp cỡi cá chép về trời để báo cáo với Ngọc Hoàng thượng đế tình hình thế
sự tối 23 và ruớc Ngài vào tối tháng cuối năm.
Có những nghi lễ mà ngày nay dường như ít còn ai nghĩ đến
là lễ cúng đầu năm xin tuổi. Người
Việt ta thường thờ cúng ông bà, tin tưởng ở Trời phò hộ, Thần linh, đấng khuất
mặt khuất mày độ trì. Các bậc Nho gia văn thi sĩ thường khai bút đầu Xuân để
đón năm mới, tổ tiên ta lập bàn hương án trước nhà tạ ơn Trời Đất cho ta sống đến
ngày nay, xin thêm tuổi mới, dùng cây hương điểm qua trên các đồ hình ‘ khai nhãn ‘ để thấy cái đẹp muôn màu muôn vẻ quanh ta, luôn cảnh
giác phân biệt chánh tà, ‘ ăn coi nồi ngồi coi hướng ‘ đừng bạ đâu ngồi đó, tệ hại hơn nữa là giành giựt cấu
xé nhau vì miếng ăn vị thế cao sang, ‘ khai nhĩ ‘ để biết nghe lời hay ý đẹp cố tránh chỉ thích nghe lời
tâu tâng bốc nịnh hót hại người, ‘ khai khẩu ‘ để biết trên trọng dưới nhường ‘ lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau ‘, ‘ nhả ngọc phun châu ‘ chứ đừng ‘ ngậm máu phun người ‘ ‘ xuất khẩu thành thơ ‘ chứ đừng đồ dõm, hàng lậu, ‘ khai mũi, khứu giác ‘ để phân biệt nơi sạch chỗ dơ, không chỉ để ngửi
đánh hơi đồng.
Xem đến đây, các bạn trẻ đừng vội mắc cở cho rằng ông
bà ta sao mà mê tín quá, ‘ quê ơi là quê ‘. Không đâu, đây quả là một lối giáo dục
sắc bén gây chú ý đánh mạnh trực tiếp vào tâm hồn con người bằng cách gợi hình
cụ thể vì ngũ quan là sinh lộ quan trọng thiết yếu chẳng những cho cơ thể tâm
linh mà còn là nguồn gốc của tham sân si,hỉ nộ ái ố. Lối giảng dạy âm thầm,
thâm trầm, bình dị đó như nước chảy đá mòn thấm dần vào đầu óc trẻ lúc nào
không hay. Tuyệt chiêu.
Hơn
thế nữa lúc nào truyền khẩu vẫn là phương cách truyền bá tư tưởng, tin tức hữu
hiệu nhất, nhanh chóng nhất có từ thời xa xưa dựng và giữ nước chưa có chữ viết.
Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại văn minh đầy đủ, tự do và khoa học kỷ
thuật dù không giải quyết được hết mọi vấn đề, cũng đã chứng minh làm sáng tỏ
được bao điều thắc mắc huyền bí trước kia. Chúng ta thường quá khắt khe trong
việc phê phán các dữ kiện thời xa xôi, đòi hỏi phải được giải thích bằng khoa học,
lý trí, số học.
Trước kia người
cùng thời với Galilée chẳng những không tin trái đất quay mà còn lên án ông phản
động buộc tội ông dám nói ngược lại chủ trương của giới cầm quyền lúc bấy giờ.
Những tác phẩm hay nổi tiếng quốc tế ‘ Hai mươi ngàn dậm dưới đáy biển ‘, Vingt mille lieues sous les mers 1866-1869,‘ Tám mươi ngày vòng quanh trái đất ‘ Le tour du monde en quatre vingts jours 1872 của nhà
hàng hải đại văn hào Pháp Jules Verne cũng chỉ được độc giả thời ông xem như là
những quyển sách du lịch sáng tạo viễn vông không có thật kích thích trí tưởng
tượng óc viễn du, mơ một thế giới trên trời dưới biển mơ hồ hoang đường bí hiểm
mà kỳ thú, thế thôi.
Ngày nay văn
minh rồi cũng không thay đổi, tuyệt tác Harry Potter của nữ văn sĩ Rowling nổi
danh thế giới là bằng chứng hùng hồn nhất. Con người vẫn mơ những chuyện kỳ lạ,
bí hiểm, huyền hoặc, quyền lực siêu phàm, phủ phàng, những chân trời, xã hội
tương lai phóng đại tối đa kích thích tận cùng giữa thật và ảo, tranh tối tranh
sáng ghê rợn, tốt xấu quyết liệt chống nhau bất phân thắng bại, phản ảnh tổng hợp
khuynh hướng mới cũ, xưa nay, có khác chăng là càng tiến bộ, con người có những
viễn ảnh sáng tạo kiên quyết táo bạo hơn cả hai mặt trái phải..
Rồi thế giới có tiến xa thế nào đi chăng nữa dần dần cũng
khám phá ra có chuyện khó tin mà có thật, trái lại ngày nay với hào quang của
khoa học kỷ thuật, tôn giáo, con người vẫn bó tay thúc thủ chưa giải thích nổi
bao hiện tượng huyền bí siêu nhiên, tưởng vậy mà không phải vậy, đạo đức càng ngày
càng tráo trở, lật lọng vô độ khó lường, khó còn giữ trọn vẹn niềm tin..
Điểm độc đáo ở đây là để giáo dục con em, tùy theo dân
trí mỗi thời, tổ tiên ta đã biết dùng hình tượng hành động cụ thể để diễn tả
truyền đạt tư tưởng, hướng dẫn theo nề nếp đạo đức truyền thống dân tộc, không
phương hại hay làm ngu dân. Không có lối độc tài áp bức, cưởng chế đe dọa nào hết.
Lối giáo dục nhân bản, có tình người đã được rao giảng lưu hành hữu hiệu cho đến
ngày nào dân trí cao cho rằng lối giải thích đó không còn thích hợp nữa thì tập
tục đó tự phai đi. Đừng coi thường những thói quen, lưu ý nhắc nhở cần thiết có
ảnh hưởng tốt đối với cá nhân tập thể.
Như việc nuôi dạy trẻ cũng tùy thuộc vào tuổi tác thời kỳ
mà hướng dẫn từng bước. Không có chuyện thần đồng mới ba tháng mà nhảy lớp biết
nói biết đứng chựng được. Phải có sự huấn luyện, khô cả cổ, đau cả lưng, lập đi
lập lại nhiều lần, té lên té xuống, u đầu sưng trán, qua thôi nôi mới
hy vọng trẻ biết bập bẹ nói, chập chững biết đi. Hơn thế nữa còn tùy thuộc sức
khoẻ cá tính và hoàn cảnh sống mà mỗi em tiến nhanh hay chậm không có mốc thời
gian nào nhất định.
Chưa
giải thích được bằng lý, khoa học được thì tổ tiên phải tận dụng cái gì mình
có, mình thấy, mình biết. Những hiện tượng con người phải tiếp xúc hằng ngày
không biết cội nguồn căn nguyên, mù tịt không cắt nghỉa rành mạch được thì người
xưa cũng phải tìm hiểu sâu sát vấn đề bằng cách nầy cách khác. Có mặt trời mặt
trăng, ngày đêm, nam nữ, sống chết thì tất có thế giới hữu hình vô hình, có trời
đất thì có thiên đàng địa ngục, có thần thánh tà ma ác quỷ. Những chuyện siêu
nhiên vượt tầm hiểu biết thì thuộc về thế giới khác huyền bí, mà vị chỉ huy tối
cao tối thượng là Trời, dưới có các Thần Thánh Tiên nữ như cách tổ chức chính
quyền kẻ cả tôn giáo sau nầy.
Chẳng
hạn như cũng để răn đe con cháu, hay đúng hơn để hữu hiệu hóa phương cách giáo
dục con em, ta dựa vào Thần quyền nên có tục lệ tiển đưa ông Táo, những vị dân
biểu về trời họp, dâng sớ tấu trình tổng kết tình hình mỗi gia đình cuối năm.
Đây có phải chăng cũng là tập tục manh nha các tờ báo cáo tổng kết hoạt động kết
quả thành tích cuối năm hay rộng ra ngày nay đơn thỉnh nguyện, kêu oan, khiếu nại,
làm reo biểu tình v.v.Tư tưởng tổ tiên đã nghĩ đến guồng máy hành chánh, luật
pháp, nhân quyền thật tiến bộ làm sao !
Cũng
không chừng vốn biết tâm lý con người thường thích sống hơn chết vì không biết
cái thế giới bên kia thế nào nên phân vân hoài nghi, sợ điều bất trắc xảy đến
do quyền lực siêu nhiên, ông cha ta đã khéo hướng dẫn lèo lái con cháu theo hướng
ý của mình theo cách ‘ ở
hiền gặp lành ‘, ‘ tích ác phùng ác,tích thiện phùng thiện ‘.óc sáng tạo của tổ tiên kỳ thú biết bao !
Mùng
ba Tết là ngày Tết nhà, Tết trâu, lẩm lúa, vườn tược, chuồng heo gà bò v.v..Nói
chung chung những nơi hay sinh vật liên quan trực tiếp với cuộc sống của gia
đình. Thường những đòn bánh Tét được tét ra từng khoanh, bánh ít, sau khi cúng
được đem cho heo gà ăn, tượng trưng cho sự xác nhận khen thưởng công trạng. Đây
cũng là một cách dạy ngồ ngộ thâm trầm vẫn mang tính cách hòa đồng nhân bản.
Trên đời, là sinh vật dù là con người, sinh vật cao cấp nhất, vẫn phải nhờ đến
người khác, không ai sống một mình được. Nước nào cũng đề cập đến việc nầy cho
rằng người dân một nước như thể anh em, tôn giáo còn nhấn mạnh rõ hơn, chúng ta
đều là con của Đấng Tối cao. Tổ tiên ta chẳng những ý thức được điều đó mà còn
biết diễn tả bằng phép xưng hô gọi nhau như người thân ruột thịt anh chị em chú
bác cô dì, v.v.Các bạn thấy không, di chúc để đời phải học và hành đó.
Chúng ta thường quên điều ấy nên có sự phân
chia giai cấp giàu nghèo như trước kia giai cấp cùng đinh (les parias) ở Ấn độ
chằng hạn chịu nhiều điều tủi nhục nhất. Họ phải sống trốn tránh như người cùi
hủi, không được chường mặt ra ngoài, vì nếu người quyền quí giàu sang nào chẳng
may đụng vào họ, về nhà phải tẩy uế và có khi còn cắt cả chỗ quần áo nào chạm
phải. Cũng chính từ lòng ích kỷ tự cao tự đại quá độ đã làm nẩy mầm móng kỳ thị
chủng tộc tôn giáo và chiến tranh tất nhiên có cơ phát triển và địa bàn hoạt động
càng ngày càng bành trướng hơn.
Ông cha mình không nghĩ như thế đâu, ngay cả
thú vật trong nhà, nói chung sinh vật cỏ cây đều được nhớ đến như để xẻ chia
chung hưởng. Không có chuyện trên đội dưới đạp, ‘ ăn cháo đá bát ‘ của những kẻ không tự trọng vô liêm sĩ khi được ‘ ngồi mát ăn bát vàng ‘ rồi thì vong ơn phản phúc, trở mặt ‘ lên chân ‘ khinh người.
Hằng năm
Tết đến, nhìn bao cây nhang sau khi đốt xong cuộn tròn trên phần cọng nhang còn
lại, tàn rơi đầy trên lư nhang, khi còn sinh thời má tôi thường vui mừng kính cẩn
bảo :’ Ông bà về rồi, nhang cong là ông bà chứng giám lòng
thành con cháu đó’. Bao nhiêu tuổi đời Xuân đến, tôi vẫn được nghe những câu
nói tương tự như vậy kèm thêm vài câu chuyện vui, hành động đáng nêu gương của
ông bà, lâu lâu bà lại cười cười kể xen vào những tập tục cổ xưa thời mẹ tôi
còn nhỏ, như chôn cái ‘ rế ‘ lót nồi trước cổng nhà để xua đuổi bọn ‘ đầu trộm đuôi cắp ‘, mà theo năm tháng dần trôi không còn ai giữ nữa.
Hoa mai vàng
Nhớ sao
là nhớ không khí Tết quê hương, với bông vạn thọ tượng trưng cho sống lâu ‘ trăm tuổi bạc đầu râu ‘, cành mai rực vàng năm cánh đem đến may mắn cho
gia đình. Ngày mồng một thì khỏi sợ bị rầy, ai cũng phải phép tắc lễ độ, mắt
mày tươi vui ‘ vì buồn ngày đầu năm thì buồn cả năm luôn’. Những bao thơ đỏ lì
xì làm rộn lòng các em trẻ nhỏ tung tăng trong quần áo giày dép mới, những câu
chúc mừng năm mới vang vang từ trong nhà ra đến ngoài đường, đâu đâu cũng vui
như hội.
Têt
nguyên đán gồm bao yếu tố điều kiện thiên thời địa lợi muôn màu muôn vẻ hòa hợp
thiên nhiên với cuộc sống trần gian. Đây còn là cơ hội cho chúng ta nhìn lại
quá khứ ôn cố tri tân, tự hào về nguồn gốc, óc tiến thủ dấn thân của tổ tiên,
tìm lại bản ngã tự kiểm tự phê sống hòa đồng đoàn kết bình đẳng, bổ sung bồi dưỡng
tiềm năng, sức khỏe, kiến thức để đừng đánh mất lấy chính mình.
Không có
Tết nơi nào đẹp thân thiện và đầy ý nghĩa bằng Tết ta quê nhà vì tình người
luôn luôn còn có dịp trổ hoa. !
Cô
Trần Thành Mỹ