Thành kính cảm
ơn linh mục Nguyễn Hùng Lân trên bước đường đầu rời quê hương
Phi trường Bruxelles Bỉ rộn rịp người trong một
ngày mùa Xuân có nắng. Kiểm soát giấy tờ. Mướn xe đẩy, mang hành lý ra ngoài
ngơ ngác hy vọng người đến đón nhận ra. Cha cứu tinh Lân theo sát gót trấn an
luôn :
‘’ Chị đừng
lo, có gì trục trặc tôi sẽ đem chị và ba cháu về nhà ba má tôi tạm nghỉ, rồi
liên lạc với nhà dòng’’.
Câu nói nầy
cha đã lập đi lập lại với chúng tôi như câu kinh nhật tụng, từ lần đầu ngày lên
phi trường Tân sơn Nhất để làm thủ tục trình diện và xác định ngày chính thức
rời quê. Cảm kích vô cùng nhưng bấy giờ mắt đã cạn khô, tôi chỉ còn biết lí nhí
cảm ơn mà hàm răng cắn chặt, nhìn không rời ba con tay xách giỏ tay kia ‘cập
kè’ quàng lấy chị hay em mình.
Thời gian như dài hẳn, tim tôi rưng rưng, đầu óc
trống rỗng, miệng khô đắng, tay đẩy xe nặng trĩu dư hương kỷ niệm, chầm chậm đi
ra sát thằng bé 7 tuổi bám chặt đùi mẹ ngẩn ngơ.
Những cánh tay vẫy vẫy từ đám người lố nhố đón người thân. Cuộc nhận diện không khó khăn vì trong chuyến máy bay nầy chỉ có sáu gia đình Việt.
Những cánh tay vẫy vẫy từ đám người lố nhố đón người thân. Cuộc nhận diện không khó khăn vì trong chuyến máy bay nầy chỉ có sáu gia đình Việt.
Sau chuyến ‘phi hành’ dài lạ người lạ cảnh lạ
quê, bốn mẹ con thừ người chào hỏi rồi vội vã theo các sơ lên xe ...chuyển
bánh. Con đường sao mà dài vô tận, trời nắng ráo, mặc áo len mà vẫn ‘đánh bò
cạp’ mới kỳ. Ba đứa nhỏ còn ngủ gà ngủ gật, mặt mày tái mét, ngồi sát nhau như
sợ phải xa rời.
Xe dừng lại trong sân, nhận kèn báo hiệu. Tôi
chưa kịp sửa lại quần áo chỉnh tề là trước mặt chúng tôi ba bốn sơ ngoại, tươi
cười bắt tay niềm nở, phụ dẫn mấy đứa trẻ và mang rương giỏ vào trong. Mãy mươi
sơ đổ xô lại, người đến bắt tay, sơ nựng má bé Nhất lùn xịt tròn quây trong áo
mũ len dầy cộm. Nhất níu lấy tay mẹ cứng ngắc, dáo dác tìm quanh, thình lình la
to :
’Bố ơi bố, bố đâu bố, tụi con đây bố ơi !’.
Hoảng hốt, ràn rụa nước mắt, tôi ôm chầm lấy
con, nhìn lại hai đứa lớn khóc ròng. Các sơ chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, nhờ
dịch, chừng vỡ lẽ, im lặng như tờ, ứa nước mắt.
Thế là chúng
tôi bước qua giai đoạn mới, cuộc phiêu lưu vào ‘cửa thiền’ Công giáo Bỉ, trong
8 tháng, ẫn tu.
Điều chúng tôi
phát giác ra ngay là các sơ nầy không nói tiếng Pháp lẫn Anh, hai thứ tiếng mình có dở cũng còn bập bẹ, ‘ba xí ba tú’, ‘ ô kê,
‘oánh tù tì’, hay khảo cứu tự điển để tìm chữ ráp câu. Chúng tôi rơi ngay vào
vùng nói tiếng Hòa lan nên quả là một cuộc đổi đời và nhận chân rằng tự do quí
mà đắt thật.
Trong khoảnh
khắc, cả một quá khứ biến dần , bao nhiêu công dồi mài kinh sử ở quê hương tiêu
tan theo mây khói :
‘Dã tràng xa cát bể Đông,
‘Nhọc nhằn mà chẳng ra công cán
gì’
Bây giờ trở thành người
mù chữ, dốt đặc cán mai, ‘thất học, mất dạy’, vô gia cư, vô nghề nghiệp cộng
thêm ‘cái già sồng sộc nó đà theo sau’ nữa mới phiền.
Thời kỳ nầy đúng là bị sao ‘Tam không’ chiếu,
không tài, không tiền, không tiếng, lại ‘không môi miếng cũng không chân đứng’
còn đèo thêm ách ‘tứ cố vô thân’, nhớ lại mà cứ tưởng chuyện... Tam quốc đời
xưa.
Bỉ là một xứ quân chủ lập hiến nhỏ, diện tích
bằng 1/10 nước ta, theo thể chế liên bang, không có tiếng mẹ nên chia thành ba
vùng ngôn ngữ Pháp, Đức, Hòa lan. Thế mà cũng như vài nước Âu châu khác như
Anh, Pháp, Hòa lan... có thuộc địa Congo ở Phi châu. Do đó, tầm nhìn của họ dù
có hào phóng thế mấy đi chăng nữa, vẫn còn đượm hình ảnh của thời kỳ vàng son
tư bản cũ.
Phải công nhận người Âu châu nói chung có tinh
thần tương trợ, nhân đạo, yêu chuộng tự do, hòa bình. Nhưng với làn sóng tị nạn
ồ ạt tràn sang, chính trị có, kinh tế không thiếu, hợp pháp, bất hợp pháp, đủ
loại giống màu, giả thật khó phân, không trách họ đề phòng và hoài nghi là
chuyện dĩ nhiên thôi.
Vùng nói tiếng Hòa lan nầy là vùng nông nghiệp
nên người dân ở đây rất cần cù, tiết kiệm, hiếu học, cầu tiến và ít cởi mở. Họ
rất tự hào khi nghe :’ Trong bụng mỗi người flamand đều có một viên gạch’.
Các bạn sẽ ngạc nhiên thích thú khi có dịp viếng nhà họ, thật sạch sẽ, ngăn
nắp, láng bóng từ trong nhà cho đến
ngoài vườn. Người Việt mình thường lắc đầu bảo chắc họ mắc phải ‘bệnh ở sạch’
khi thấy, vào mùa Đông mà họ vẫn hùng hục lau rửa xe, cửa kính nhà, ở ngoài
trời luôn. Khác hẵn với Paris, Bruxelles, đường sá ở đây rất sạch, khách bộ
hành ít đạp phải chất thừa thãi không thơm tho, khó gỡ của đủ loại chó nuôi có
‘đính bài’.
Mặc cảm thiếu thốn, ít học của vùng bị chiến
tranh tàn phá, đẩy người dân phía Bắc Bỉ phải tha phương cầu thực, đi làm thợ
mỏ than, công nhân lao động chân tay ở các xí nghiệp kỷ nghệ, trui luyện ý chí
và quyết tâm vùng lên xây dựng lại cuộc sống mới. Và họ đã biến vùng nghèo nàn
nầy trở thành trù phú, giàu có, tiến bộ như hiện nay.
Về văn hoá, ý thức được tiếng Hòa lan ít người
biết đến nên vừa để không mai một tiếng mà họ xem là tiếng mẹ, củng cố phát huy
vừa bắt buộc học tiếng khác của liên bang, Pháp, Đức, vừa khuyến khích học thêm
Anh văn ngôn ngữ thông dụng ngoại.
Có dịp
đến vùng flamand, bạn đừng lo không ai giúp bạn tìm đường. Người già hiểu
tiếng Pháp, trẻ biết tiếng Anh...Thường rất dè dặt nhưng rất hào hiệp lịch sự
đối với khách du lịch nước ngoài.
Thái độ
lại khác hẳn với người tị nạn hay di dân. Đến đây là phải học tiếng họ, không
bao giờ họ tiếp chuyện với mình bằng tiếng khác nếu họ biết mình cư ngụ đóng đô
ở xứ nầy.
Không có
chương trình đặc biệt dành riêng cho học sinh tị nạn cũng như không đặc ân nào
về tài chính cả.
Sống
trong vùng nầy, tôi liên tưởng đến dân tộc Việt nam, chịu khó, nhẫn nại, ham
học, dám nghĩ thích làm, cạnh tranh vươn lên tìm chỗ đứng xứng đáng. Biết thế
để thấy rằng không dễ gì sống với họ nếu không tự lực sẽ bị khinh miệt, chèn
ép, khó tiến thân. Họ học một, con em ta phải bỏ công hai ba lần hơn, họ dùng
sức, yếu ta dùng trí đối lại.
Bàn qua về tiếng Hòa lan, cùng gốc với Anh Đức,
cấu trúc câu lại rất phức tạp, khó sử dụng đúng cho người nước khác. Ngay cả
người Bỉ ở vùng nói tiếng Pháp, nếu được chọn, cũng không thích cho con em mình
học tiếng liên bang bắt buộc nầy.
Hơn thế
nữa, cách phát âm khác nhau từ vùng nầy sang vùng kế cận, thêm nhiều thổ ngữ
địa phương làm điên đầu ,’ điếc con ráy’ ‘lính mới tò te’, người lạ mới học.
Trung
quốc to rộng có nhiều thứ tiếng khác nhau như Quảng đông, Phúc kiến,Tiều, Hẹ...
nhưng họ cũng có tiếng quan thoại chính thức.
Bỉ không
có ngôn ngữ riêng, vay mượn Hòa lan, Pháp, Đức. Khác hẵn chẳng hạn với
tiếng Việt ta, dù cách phát âm có khác đi đôi chút, nói đọc viết, ba miền đều
hiểu được.
Tiếng bất
đồng nên tâm khó hợp, vì thế hục hặc
không thể tránh, mầm chia rẽ muốn tách rời thành nước độc lập xáo trộn tình hình
chính trị Bỉ luôn.
Sống
bao nhiêu năm trên đất nước nầy, tôi vẫn không quên cây thanh long, cùng họ
xương rồng, uốn quận thân cành cây khác vươn cao, khoe sắc hoa, nặng trĩu quả
màu hồng phơn phớt tím cài bên trên bằng những chiếc ‘kẹp’ hình vảy rồng cong
cong nhòn nhọn, ruột ngọt lịm mà nhìn giống như miếng mỡ muối rắc tiêu.
Trái thanh long
Hoa
lá thanh long
Nhìn giây bầu, giây mướp bò quyện trên giàn, cột gỗ
mà liên tưởng đến những chùm cây tầm gởi bám dính như thằn lằn sống tựa nhờ cây
khác, thấy mà thương. Như lục bình hờ hững trôi theo dòng nước, dù có xanh tươi
tự do giữa trời lồng lộng, vẫn hy vọng tìm mé cặp bờ.
Lục bình
Người dân
tha hương cũng thế, dù đã hội nhập được ít nhiều với cuộc sống lạ, vẫn không
quên được mình là thân cây tầm gởi như cuộc sống trần gian ‘sống gởi thác về’.
Thôi, nếu chẳng đặng đừng, không được là cây
thanh long, mướp bầu,...rỡ ràng trong
vườn nhà thì thà là cụm lục bình hay dây tầm gởi mà vẫn còn hy vọng quyết tâm
giữ vững giống dòng, hơn là bị ép thành thân bạch tuộc, sứa lửa quê hương lắm
vòi nhiều nhánh đốt rát gây đau nhức, hay con đỉa chỉ có biết hút máu đến khi
nào phình bụng mới chịu buông tha.
Dòng đời
đâu phải luôn luôn như ý, hãy cố biến cái gì mình có thành tơ sợi mắt võng tình
thương, tin yêu hy vọng. Đường trần không thiên vị một ai, sướng khổ biết sao
so sánh. Đố ai biết chắc tương lai, sao không cố sống cho trọn giờ phút mình
đang hưởng để rồi đến lúc vĩnh viễn ra đi thanh thản chia tay, hay như một nhà
văn Hòa lan đã viết :
‘’Als je kunt, wees een ster aan de hemel!
Als je geen ster kunt zijn, wees een vuur op de berg!
Als je geen vuur kunt zijn, wees dan de lamp op de huiskamer !
‘’
‘Nếu
có thể, hãy là vì sao sáng trên nền trời cao,
Nếu
không thể là vì sao thì làm ngọn lửa hồng trên núi,
Nếu
không được nữa, hãy là ngọn đèn soi ấm phòng nhà.’
Cô Trần Thành Mỹ