IV/-NHỮNG NHẬN ĐỊNH & PHÊ BÌNH VỀ
Ô.HỒ BIỂU CHÁNH
1//- Tiếng chê:
Trước tiên, như đã
ghi trên, hầu như miền Bắc chê, không thèm đọc vì văn Hồ Biểu Chánh “quê mùa, chẳng văn chương”
(!)Điều nổi bật cần nêu, mà những ai có chút quan tâm về văn học, đều nhận rõ
là qua một thời gian dài, vị thế của “tác giả có nhiều tác phẩm và nhiều thể
loại nhứt Việt Nam” đã bị người ta bất công đặt không đúng vị trí đáng lẽ phải
có, thậm chí loại bỏ, không cho ông được ngồi vào “mảnh chiếu văn học”. Thời
gian dài là bao lâu, xin thưa khoản nửa thế kỷ. và người ta đây là ai, đó là
các nhà phê bình văn học và các vị trách nhiệm trong ngành văn học nghệ thuật
Việt Nam. Và có nên chăng, phải đặt “vấn đề” với các vị lảnh đạo trong chánh phủ
Việt Nam Cộng Hoà từ 1955-1975?. Sự “bất
công” nầy chắc hẳn được rất nhiều người chia xẻ, trong đó phải kể cả hai ba thế
hệ học sinh và sinh viên ,(từ 1920-1970)vì trong học đường, về văn xuôi tiểu
thuyết thời hiện đại, đã chỉ được dạy
quá nhiều nào là “Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn với các nhà văn
Nhất Linh, Hoàng Đạo, Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng . . Người có đi học
luôn thương cảm nhân vật Loan trong Đoạn Tuyệt, luôn ghen tị với tay “Xuân Tóc
Đỏ” của Vũ Trọng Phụng, nhưng rất ít hay hầu như không biết Lê văn Đó trong “Ngọn
Cỏ Gíó Đùa”. Thật không nên đặt vấn đề nam-bắc, nhưng dường như hầu hết các nhà
văn ghi trên đều là gốc miền Bắc???. Và cũng thật không nên nghĩ đến từ ngữ “kỳ
thị”. nhưng thử tìm hiểu vấn đề, chúng ta sẽ thấy rõ nguyên nhân vì đâu xảy ra
sự kiện “chập chọang” nầy. Trước tiên, tuần tự theo thời gian:
-ông Thiếu Sơn,
trong “Phê Bình và Cảo Luận” (1933),
-và sau đó ông Vũ Ngọc
Phan, trong “Nhà Văn Hiện Đại” (1942), chỉ đưa ra những nét phác thảo giới thiệu
chớ chưa đáng gọi là những bài nghiên cứu đủ kích thước về tác giả Hồ Biểu
Chánh.
-Riêng cố giáo sư
Dương Quảng Hàm, với “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” (1944) một bộ sách mà trong thơì
gian dài, học sinh trung học phải học hỏi tìm hiểu nhiều tác giả miền ngoài,
nhưng lại không nhắc qua một chữ về Hồ Biểu Chánh (và Phú Đức) là hai tác giả
có một thời tung hoành trong văn giới miền Nam.( những ai đã từng là HS,SV từ
1960-1970 phần nào đã nhận ra sự kiện nầy)
Về phương diện tiểu
thuyết, Hồ Biểu Chánh và Phú Đức, “hơn” trước cả Song An Hoàng Ngọc Phách với
quyển Tố Tâm (1925) Nguyễn Trọng Luật với “Quả Dưa Đỏ” (1925). Bước theo ông
Dương .Quảng.Hàm, nhiều tác giả sau đó cũng cho Hồ Biểu Chánh “việt vị luôn”(bị
loại ngoài sân chơi). Mãi đến gần đây, ông Phạm Thế Ngũ, trong “Việt Nam Văn Học
Sử Giản Ước Tân Biên” (1965), mới định cho ông H.B.C một chỗ đứng thích đáng.
“(tác giả Bằng Giang, trong bài “Về Hồ Biểu
Chánh”- www.hobieuchanh.com). Cũng liên quan đến nhà phê bình họ Vũ, trong
bài “Thiếu Sơn, Nhà Văn Chánh Trực”, tác
giả Thanh Xuân đã ghi lại lời phê của họ Vũ
liên quan đến ông H.B.C như sau: “tiểu thuyết của HBC thuộc về trường
phái chiết trung, hầu đáp ứng thị hiếu của đông đảo độc giả ,nhưng cũng chính
vì để đạt tới sự dung hoà nầy, tiểu thuyết của Hồ Biễu Chánh là một sự nửa vời
về các tiêu chí ( lại tiêu chí?).Thiếu Sơn đã vạch ra các nhược điểm của tác phẩm
H.B.C,tâm lý nhân vật đơn giản, cốt truyện ít ly kỳ, đã là tiểu thuyết tả chân
còn có những anh hùng lý tưởng, nghệ thuật tả chân còn chất phác, quan điểm sáng tác còn bị trói
buộc trong vòng luân lý”(www.viet.studies-info
) .
-Gần đây, tác giả
Nguyễn Huệ Chi, (3) một cán bộ “cấp cao” về văn học của Cộng Sản Việt Nam đã
phê bình như sau: “. . .với những mặt khả
thủ và non kém trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật, HBC tuy có những thành
tựu nhất định, cũng không thể đi quá cái mốc 1930 trong lịch sử văn học công
khai trước sự hình thành chủ nghiã hiện thực phê phán những năm sau đó. .
“( trang 312 , Tự Điển Văn Học ,nxb Văn Học,
1983-Hà Nội). .
Nhưng về một khía cạnh khác, bên cạnh những tiếng
chê là lời khen, đáng nêu bật là một số các nhà văn học miền Nam (hoặc gốc Bắc,
nhưng sinh hoạt chủ yếu tại miền Nam), mà cụ thể là 2 giaó sư Văn Khoa Sài
gòn. Hai vị nầy khởi đầu “chê”, chê đến độ muốn loại HBC ra khỏi “manh chiếu
văn học”, nhưng sau đó lại thay đổi đến 180 độ, tức hết lời ngợi khen, mà chúng
ta cùng tìm hiểu sau nầy.
2/-Tiếng khen:
Lược qua gia tài đồ
sộ của ông Hồ Biểu Chánh, phải vô tư nói rằng thật rất hiếm hoi một tác giả nào
có thể so sánh được. Nếu đặt vấn đề hay, dở chưa biết “ai hơn ai”, nhưng nếu
cho rằng truyện phải có chủ đề, nội dung hấp dẩn, gây cấn thì hầu hết truyện của
ông đều “thừa mứa”các yếu tố đó. Chả trách người miền Nam từ nhiều thập niên từ
1920 đến nay đều ưa thích, nếu không nói là “mê mệt”. Trong trang viết về HBC,
nhà văn Vũ Ngọc Phan đã ghi ra như sau: “. . .Thật thế, tiểu thuyết của HBC là những tiểu thuyết đầy động tác, việc nọ
việc kia đồn dập, gây cho người đọc những cảm tưởng kỳ thú. Tiểu thuyết của họ Hoàng (trong Tố Tâm chuyên
về tình cảm và giọng văn nhiều chỗ như ủy mị, cầu kỳ, không tự nhiên.Còn tiểu
thuyết HBC chuyên về tả việc, và lời văn mạch mẽ,giản dị,nhiều chỗ như lời nói
thường) (Vủ Ngọc Phan-Nhà Văn Hiện Đại,nxb
Thăng Long,tái bản Sài gòn 1960).Tiếc thay, trước đây, người miền Bắc “chê”
không thèm đọc vì cho rằng truyện của Ông H.B.C “quê mùa, chẳng văn chương”. Điều
quan trọng cần nêu, mà những ai có chút quan tâm về văn học, đều nhận rõ là qua
một thời gian dài, vị thế của “tác giả có nhiều tác phẩm và nhiều thể loại
nhứt Việt Nam” đã bị người ta bất công đặt không đúng vị trí đáng lẽ phải
có. Sự “bất công” nầy chắc hẳn được rất nhiều người chia xẻ, trong đó phải kể cả
hai ba thế hệ học sinh và sinh viên, (từ 1920-1970) vì trong học đường, về văn
xuôi, tiểu thuyết thời hiện đại, đa phần nghe nói đến “Nam Phong, Tự Lực Văn
Đoàn với nào Nhất Linh, Hoàng Đạo, Phạm Quỳnh, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố . .
.Chúng ta hoàn toàn đồng ý, là những tác giả nêu trên, cùng những tác phẩm thật
rất sinh động, nhứt là đã mô tả xã hội miền Bắc, cùng những hủ tục, cần phải đổi
mới (truyên Đoạn Tuyệt của Nhứt Linh, hay
như truyện tả chân Xuân Tóc Đỏ, Làm Đĩ củaVũ Trọng Phụng). Thế thì tại sao
chúng ta không đặt vấn đề, xã hội miền Nam ai viết ra ghi lại mà ghi một cách
khá tỉ mỉ và toàn diện. Ai, nếu không là Lê văn Trương, là bà Tùng Long, là Lê
Xuyên và nhứt là Hồ Biểu Chánh, trong gần nửa thế kỷ? Điều quan trọng vô cùng
là nước Việt Nam hay văn học Việt Nam đâu phải chỉ miền Bắc mà thôi sao?.Có lẽ,
không gì hơn, là xem lại lời nhận xét của Giáo sư Thanh Lãng, như vừa ghi trên
phần nhập đề. Và người ta cũng thật thoã mãn, khi xem được bài phân tích rõ
ràng của tác giả Thuỵ Khuê (4). Tác giả nầy đã viết như sau: “Cho đến bây giờ, phần đông giới làm văn học
vẫn còn cho tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cuốn tiểu thuyết quốc ngữ
đầu tiên của Việt Nam. Sai lầm nầy phát xuất từ những nhà nghiên cứu văn học thời
trước phần lớn gốc Bắc, từ Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh. . Khi
nghiên cứu văn học thế kỷ XX đã quá nghiêng về miền Bắc, mà không chú trong đến
miền Nam, nơi khởi thủy nền văn học quốc ngữ .(www.hobieuchanh.com )( tiểu thuyết “Tố Tâm” ra đời năm 1922, sau quyển đầu tiên của Hồ Biểu
Chánh đúng 10 năm).Tiếp theo, ,là những nhận định của một số nhà nghiên cứu,
học giả khác đã viết về Hồ Biểu Chánh .Chúng tôi thật không dám làm công việc
phân tích phê bình văn học , chỉ xin ghi lại những gì mình sưu tập được. Trước
tiên là 2 tác giả đã có lời “chê” từ lúc đầu, nhưng sau đó lại khác, như tác giả
Đông Hồ. (5) Vị học giả đất Hà Tiên (cũng là giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài gòn
thập niện 1960), đã từng nhìn nhận: “. . .Tôi
không chịu được văn chương của Hồ Biểu Chánh, cũng như tôi bây giờ không chiụ nổi
văn chương hát cải lương với văn chương của những tiểu thuyết chưởng hiện đang
thịnh hành 1967,trong lúc đó thì chung quanh tôi mọi người hoan nghinh nồng nhiệt.Như
vậy,chứng tỏ quan niệm của tôi sai lầm và cảm quan của tôi lệch lạc. . “(trang 72, tạp chí Văn như trên đã dẩn).
Người ta cũng đọc thấy trong tạp chí Văn, tác giả Đông Hồ đã trên 5 lần tìm gặp
H.B.C để thăm viếng “đàm đạo văn chương”, coi như một hành động cũ thể “đính
chánh sai lầm trước của mình? Và điều đáng lưu ý, chính tác giả Đông Hồ, sau nầy
đã cụ thể khen HBC qua sụ việc như sau. Ông Đông Hồ, với tư cách giáo sư ĐH Văn
Khoa Sài gòn, đã hướng dẩn một sinh viên cao học qua lời chỉ dẩn: “Hồ Biểu Chánh, nhà văn bạch thọai miền Nam.Cứ
đào sâu về một địa hạt nầy, cứ tìm kiếm về một phương diện nầy, chúng ta sẽ thấy
có nhiều giá trị văn chương và văn học ở tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh”( trang
72, tạp chí Văn , cùng số). Kế tiếp, giáo sư Nguyễn văn Trung (giáo sư Đại
Học Văn Khoa Sài gòn, người gốc Bắc) (6) cũng đã nhìn nhận: “. . .sau khi đọc xong, tôi nhận thấy tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh thật cảm động, thật hay ,thật hấp dẩn”, và ông đã đặt câu
hỏi: “ tại sao một cuốn truyện trên nửa
thế kỷ, vẫn còn hấp dẩn , gây xúc động với một người ở điạ phương khác với điạ
phương cuả tác giả. .”(trang 677, Văn
Xuôi Nam Bộ, Nửa Đầu Thế Kỳ XX, nxb Văn Nghệ TP/HCM, 1999). Rỏ ràng, tác phẩm
của HBC phải gọi là những kiệt tác, đúng như G.S Bùi Xuân Bào nhận định. Vị nầy,
nguyên là Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Sài gòn trước 1975, trong luận án tiến sĩ
Sorbonne-Pháp 1961 đã viết: “một kiệt tác
là một tác phẩm hoặc được độc giả ưa thích lúc đương thời và mãi mãi về
sau. Nói khác đi, một kiệt tác là một
tác phẩm vượt thời gian và không gian. . . ” .Về nhận xét nầy ta thấy hoàn
toàn đúng đối với trường hợp của ông Hồ Biểu Chánh. Ngày nay, một phần lớn tác
phẩm của HBC được xuất bản với số lượng lớn (tức có người tìm đọc) và hơn chục
truyện của ông đã được dựng thành phim.Thật không một tác giả nào được như vậy,
chả bù với một số các tác giả khác với
vài ba tác phẩm thành phim đếm trên đầu ngón tay.Xem như trên, chúng ta thấy
các tác giả lúc đầu chê, nhưng sau đó lại không hết lời ca tụng ông Hồ Biểu
Chánh, đó là hai giáo sư Đại Học Văn Khoa, ông Đông Hồ và Nguyễn văn
Trung.
Một số
tác giả khác đã nhiệt tình tôn vinh tác giả HBC như học giả Hồ Hữu Tường (7)
trong một bài khá dài, chi xin ghi vài dòng chính như sau: “ . . .từ ấy tôi có một quan niệm rõ rệt về tiểu
thuyết. . . Té ra một tiểu thuyết hay là tạo cho độc giả một cảnh mộng mà độc
giả say mê đi vào cảnh mộng ấy. . .Tôi có thể nói rằng vị giáo sư đầu tiên dạy
cho tôi văn chương, dạy bản sắc của văn chương, dạy đạo lý về văn chương. ấy là
Hồ Biểu Chánh (trang 34, tạp chí Văn số 80, tưởng Niệm H.B.C ). Tác giả Hồ
Hữu Tường cũng là người rất “ngay thẳng” khi nhận xét về Hồ Biểu Chánh: “. . .còn văn khí của HBC là văn khí quê
mùa.Chính giá trị HBC là ở chỗ đó, chỗ văn chương quê mùa ấy. . .Văn của
tôi(H.H.T) tương đối là văn quảng bác(?). . Tôi ân hận là vì chỗ ấy vô cùng.
Điều mà tôi mong muốn là làm sao viết cho được quê mùa như văn của Hồ Biểu
Chánh” (trang 34, tạp chí
Văn, số 80). Cũng trong một lần tiếp xúc với một nhà văn mới, tác giả H.H.T
cũng đã bộc trực trà lời: “ . . .vâng,
tôi vẫn biết thế. Tôi vẫn biết thanh niên ngày nay thích Francois Sagan, và
nhạc Beatles, nhưng ăn thịt mãi có khi cũng ngáy miệng, và lúc ấy, ngưòi ta lại
thèm măm”. Dĩ nhiên ai cũng biết “mắm” đây chính là văn chương bình dân mộc
mạc của Hồ Biểu Chánh.
Một tác giả khác là nhà văn Dương
Nghiểm Mậu đã rất chân tình như sau: “. . .Tôi
đã đọc tiểu thuyết của ông(HBC) cách đây mười mấy năm trời, khi còn theo học
những lớp đầu tiên bậc trung học ở Hà Nội . . sau nầy có một thời gian tôi đã
dành thì giờ đọc lại những gì tôi đã đọc, những gì chưa đọc, với mục đích tìm hiểu
những khởi đầu của nên văn học ta, tìm hiểu những đặc tính của miền Nam, quê
hương thứ hai tôi yêu dấu. Quê hương miền Nam mở ra cho tôi những bàng hoàng
không ít, cuộc sống những vùng sình lầy hoang vu, trong kinh rạch quyến rủ tôi.
.” (Từ Đó Đến Nay, Văn số 80).
Những lời trên của hai nhà văn đã
xoá được gần một thế kỷ thành kiến và đánh giá sai lầm về HBC.Từ vài năm qua,
chúng tôi đã say mê tìm đọc một số tiểu thuyết của ông, và nhứt là không bỏ sót
trong số khoản 10 bộ phim phóng tác từ truyện của ông. Như tác giả Thuỵ Khuê nhận
định, trước đây quả có sự sai lầm, nếu không muốn nói là bất công đối với các
nhà văn miền Nam, mà tác giả HBC là người bị thiệt thòi nhiều nhứt.Thật vô cùng
may mắn, tìm đọc trên trang mạng www.nguoitinhhuvo.wordpress.com
, chúng tôi đã thấy tác giả ghi rõ : “ . .
Xin hãy nói rõ hơn về sự kiện tác giả Vũ Ngọc Phan (trong quyển Nhà Văn
Hiện Đại), người ta thấy, cũng như tác giả Dương Nghiễm Mậu đã thấy, nhà phê
bình văn học họ Phan viết về HBC có một vài trang ít ỏi, nó không nói lên được
bao nhiêu về thân thế và sự nghiệp của một người đã đóng góp không nhỏ vào văn
học”. Chúng ta không phải tranh luận, phê phán về “thái độ phê phán” của tác giả
họ Vũ, nhưng người ta đã tìm thấy đây là kiểu “anh mù sờ voi” !. Về phía các
nhà văn học khác, nếu đã không “nghiêng về miền Bắc”, thì vì lý do nào đó đã âm
thầm hay công khai “chê” văn Hồ Biểu Chánh.Chính ông Đông Hồ lúc đầu, đã viết:
“đọc thì cũng đọc, thích thì cũng thích,
duy chúng tôi cứ không chịu được lối văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của
ông”.
Thêm một tác giả
khác là ông Nguyễn Huệ Chi, đã nhận xét:’ Với
những mặt khả thủ và non kém trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật, Hồ Biểu
Chánh tuy có những thành tựu nhứt định, cũng không thể đi quá cái mốc 1930
trong lịch sử văn học công khai trước sự hình thành chủ nghiã hiện thực phê
phán những năm sau đó. Và ít nhiều cũng góp vào văn học Việt Nam sắc thái riêng
biệt của ngòi bút sung sức thời cận đại”(trang 312 , Tự Điển Văn Học, nxb Văn Học-!983-Hà Nội). Vị tác giả nầy
được biết cũng là một “nhà nghiên cứu văn học tầm cở”, và dĩ nhiên là một
cán bộ “văn hoá cấp cao” trong nước, nhưng đã có nhận xét gần như quá cục
bộ. Thật chúng ta không dám “múa rìu qua mắt thợ”, nhưng có phần nghi ngờ về sự
ngay thẳng khi vị nầy đã nhận xét . Tác giả nầy vốn là người miền Bắc (mà hầu
như không thích đọc HBC),hay đả đọc được mấy truyện cuả nhà văn họ Hồ (cũng như
Vũ Ngọc Phan). Vị nầy cũng đã nhận xét nội dung tiểu thuyết của HBC “non kém trong tư tưởng”, chẳng biết ông có sống
và viết gần 50 năm và tư tưởng đã giàn
trải ít ra trong hơn 60 truyện như tác giả họ Hồ chưa???. Càng “có gì không ổn”
rõ nét nhứt là ông Huệ Chi đã ghi: “ . . .không vượt quá niên hạn 1930”,
thật rất tiếc vị nầy có lẽ không hiểu là ông HBCđã viết liên tục, đến phút cuối
vào năm 1958, và ngả gục khi cuốn tiểu thuyết cuối cùng còn dở dang. Quả thật
không nên nghĩ rằng ông Huệ Chi đã phê phán kiểu như “sờ voi”, nhưng có thể vì
lý do nào đó khiến ông ấy có cái nhìn phần nào phiếm diện.Thật ra, cũng không
việc gì phải ngạc nhiên, vì một số các nhà phê bình văn học miền ngoài đã có
cùng “suy nghĩ một giuộc hay ảnh hưởng tương tác, như một tác giả sau nầy đã nhận xét: “. . .Hồ Biểu Chánh là một nhân vật đặc biệt,
người gắn bó số phận và những thăng trầm của văn học quốc ngữ miền Nam.
Hồ Biểu Chánh và các tác giả văn học quốc ngữ Nam Bộ khác hầu như là “một vùng
đất bị bỏ quên” của lịch sử văn học dân tộc. Phải đến sau năm 1986, vị trí của
ông mới dần dần được phục hồi trong đời sống văn học, tác phẩm của ông được tái
bản, và được đưa vào chương trình phổ thông”. ( trích trong bài “Tiểu thuyết HBC,nhìn từ sự phát triển của
văn học và văn hoá Nam bộ đầu thế kỷ XX ”-Phạm Xuân Thành- www.tailieu.tv.com /tieuthuyethobieuchanh.)Nhận định
của vị tác giả nầy, đã không khác với nhận định của tác giả Thụy Khuê. Cũng như
nhà phê bình Phạm Thế Ngữ (8), trong tài liệu khảo cứu khá dài “Tiểu Thuyết Miền Nam” trong khuôn khổ Đại Học
Quốc Gia/TPHCM-Đại Học KHXHNV, đã rất cụ thể:” Hồ Biểu Chánh là một nhà nho lớp củ viết văn viết báo ngay từ những năm
đầu thế kỷ, lại có tiểu thuyết lưu hành tại Saì gòn ngay từ 1912,song chỉ với khi tác phẩm của ông được
đăng vào Phụ Nữ Tân Văn,ông mới được biết khắp trong nước và cây bút của ông từ
đó chuyển hẳn vê tiểu thuyết. . . Người
viết văn học sử chỉ chú mục vào sân khấu bắc hà, đến nay có lẽ phải gật mình
quay thấy mình chỉ để ý khám phá những bước đầu của thế giới tiểu thuyết VN ở miền Bắc, trong khi thứ đó đã thành hình từ hồi
nào ở miền Nam rồi. .” (www.vnhoahoc.vn/nghiencuu). Cũng cần ghi thêm, ghi một cách thật đậm nét,
đó là miền Nam là nơi phát hành những cuốn từ điển đầu tiên của Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của. Miền Nam cũng là nơi xuất hiện quyển tiểu thuyết đầu tiên “Thầy
Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản,viết năm 1887.Miền Nam cũng là nơi phát hành
những tờ báo tiếng quốc ngữ đầu tiên, như:Gia Định Báo,(1882),Nam Kỳ Nhựt
Trình(1897),Nông Cổ Mín Đàm(1901) và Lục Tỉnh Tân Văn(1907) ( theo Thuỵ Khuê:Nhà Văn Hồ Biểu Chánh”- www.hobieuchanh.com). Cũng trong trang web vừa nêu, người
ta đã xem được lời nhận xét của nhà phê bình Thiếu Sơn,như sau:”. . tôi kinh ngạc khi được đọc lần đầu tiên một
quyển tiểu thuyết của cụ(HBC).Tôi không ngờ ở miền Nam lại có một nhà văn hấp dẩn
đến cở đó.Lời văn nhẹ nhàng giản dị,nhiều khi có vẻ chất phác thật thà,nhưng
coi không chán, đọc không mỏi.Tả cảnh gọn gang mà linh động, tả tình sâu sắc mà
ói oăm.Câu chuyện không hoang đường vì phần nhiều là lấy trong đời sống của mọi
ngưòi và đong khung trong hoàn cảnh Việt Nam, nhất là ở miền quê Nam Bộ”(www.hobieuchanh,com)
Đặc biệt, không thể không ghi lại đây lời nhận
định của tiến sĩ Mai Quốc Liên, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học (trong
nước) (9)Vị nầy trong bài viết “Hồ Biểu Chánh, một đại văn hào”, đã nhận
định như sau: “Tiểu Thuyết Hồ Biểu Chánh
là một bộ lịch sử Nam Bộ hồi xưa, được tái hiện qua tiểu thuyết .Xét về đủ mọi
phương diện, Hồ Biểu Chánh là một nhà tiểu thuyết lớn của Nam Bộ và của cả nước.Chúng
ta phải xác định lại đúng vị trí của ông trong lịch sử văn học. .”( www.hobieuchanh.com) .Về những lời
khen,hay đúng hơn là nhận xét thật nghiêm chỉnh của một nhận vật khá đăc biệt
khác, tác giả Trần Bạch Đằng, đã giúp ngưòi ta củng cố thêm nhận định chính
xác, vô cùng chính xác về nhà văn H.B.C. Phải nhắc lại đôi câu về ông Trần Bạch
Đằng(10),là một đảng viên cao cấp của Cộng sản Việt Nam, đã từng giữ chức vụ bí
thư thành ủy Sài gòn trong thời trước năm 1975. Trong bài viết “ Đọc lại các
tác phẩm của Hồ Biểu Chánh”, tác già T.B.Đ đã ghi lại thật đậm nét :“. . . ông giữ lối văn miêu tả đều đều giản dị,
không gây bất ngờ đột ngột,mà vẫn gieo hứng khởi cho người đọc. . Tôi nói người
đọc vào những thập niên thế kỷ 20. . .chắc chắn không phải nhiều nhà văn VN tiền
bán thế kỷ 20 đứng được như vậy,và cũng chắc chắn cũng không phải nhiều nhà văn
đương đại với chúng ta sống mãnh liệt và
lâu bền được như vậy. . .”(www.hobieuchanh.com
).Và cũng chính tác giả nầy, trong số báo SGGP ngày 14/11/1998,trong bài viết
:“HBC,nhà văn đi đầu phản ảnh hiện thực xã hội thực dân phong kiến” đã tái khẳng
định vị thế của tác giả họ Hồ(BC) như sau: “.
. càng lâu về sau, ông càng trở thành nhà văn cổ điển của nền văn học Việt
Nam.Chúng ta tự hào đất nước có nhà văn Hồ biểu Chánh” (www.hobieuchánh.com )(Cũng nhân đây,
xin ghi lại đôi dòng về trang web nầy , đây là trang web tại hải ngoại do các vị
nghiên cứu như Phan Tấn Tài, Lê văn Tâm, Lê Trường Xuân, Hùng Thành Mỹ. . Rất
nhiều tài liệu bài nghiên cứu về tác giả họ Hồ, và trang nầy cũng đã đăng 30 tiểu
thuyết của ông ấy).
Cũng cần ghi ra đây,
những sự kiện ngoại vi, nhưng có thể là những yếu tố thật vô cùng mạnh mẻ, khẳng
định giá trị thực của kho tàng tác phẩm họ Hồ. Đó là:
-Rất hiếm tác giả
nào có tác phẩm được phóng tác thành phim như ông Hồ Biểu Chánh.
-Và cũng thật hiếm
hoi, ít tác giả nào có tác phẩm được in với số lượng nhiều như tác giả Hồ Biểu
Chánh. Người ta đã ghi nhận , vào năm 1998, nhà xuất bản Tiền Giang đã in lại 5
truyện của tác giả với số lượng như sau:-Cười Gượng(22.100 quyển),Hạnh Phúc Lối
Nào(30.200quyển), Cụ Kình (30.000 quyển)-Chị Đào,chị Lý (18.000 quyển), Ý và
Tình (15.000 quyển(www.vjol.info/index).
Riêng về chúng ta, một
phần vì các phim Hồ Biểu Chánh (phim dựng theo truyện H.B.C)quá hay khiến phải
mê thích,và còn một nguyên nhân khác nữa. Đó là chúng ta cảm thấy phải xem để
có tạm đủ dữ kiện để viết về ông,hay đúng hơn để góp phần nào đó vào việc “dành
lại công đạo” cho nhà văn miền Nam nầy.Các vị “chê’ văn của ông Hồ Biểu Chánh”
,tiếc thay lại là các vị có tiếng tâm,học vị.mà sự phê bình nhận xét của các vị
nầy phần nào cũngcó “trọng lượng”.
V/-
Công lao của Ông Hồ Biểu Chánh;
1/ Làm vững mạnh
nền móng căn bản chữ quốc ngữ:
Trước
tiên, cần nhấn mạnh là tác phẩm của ông đã góp phần vào việc làm vũng mạnh nền
móng căn bản của văn học chữ quốc ngữ. Thật vậy, nhà bác học Trương Vĩnh Ký và
Huỳnh Tịnh Của đã góp phần chế tác, hoàn chỉnh chữ quốc ngữ (khởi
đầu do công sức các nhà truyền giáo Tây Âu). Hai vị nầy cũng để lại nhiều tác phẩm giá
trị bằng chữ quốc ngữ, nhưng phải nói là các tác phẩm của hai vị học giả trên
trong giai đoạn giao thời, chưa được phố biến rộng rãi, và “chọn lựa người đọc”;trái
lại chính Hồ Biểu Chánh đã tạo đà khởi sắc, vững chắc .Thật vậy, vì văn phong,
nhứt là nội dung những tác phẩm của ông đã ghi lại tình trạng xã hội Việt Nam
thời đó; hơn thế nữa , đã rất hợp khẩu vị của người miền Nam.Thật đúng như nhà
văn Thiếu Sơn đã viết: “Tôi nhớ rằng hồi
đó tôi đã nói tới ảnh hưởng của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là nó đủ sức hấp dẩn
để lôi kéo độc giả Việt Nam ham đọc truyện Tàu trở về tìm đọc truyện ta để nhớ
tới thân phận con người Việt Nam đang sống trong xã hội Việt Nam và đang là nạn
nhận của chế độ. Đặc biệt nhứt là tác giả lại về phía những người nghèo hèn, yếu
thế, những tá điền và nông dân. Khi tôi biết rõ thêm tác giả chính là một ông
quan, một đốc phủ sứ, đã ngồi quận nhiều nơi, và ở đâu ông cũng tỏ ra là một
ngươì thanh liệm và ngay thẳng . . .”(trang
26, tạp chí Văn như trên)
Sự
nghiệp văn chương của ông có thể nói là “vĩ đại”, có một không hai trong văn học
sử nước Việt Nam. Đánh giá về công lao của ông, nhiều tác giả đã làm sau nầy,
và đã mang lại sự công bằng cho riêng tác giả; cũng như tránh được phần nào sự
tì vết trong văn học sử Việt Nam. Nói sau nầy vì trước đây, chẳng hiểu vì sao
các nhà phê bình văn học cũng như các nhà cầm quyền về giáo dục, trách nhiệm của
chánh quyền từ thời nhà Nguyễn, mãi sau nầy đến thời Việt Nam Cộng Hoà, dường
như có sự khiếm khuyết.
2/-
Phát triển chữ quốc ngữ
Phát
triển hay quảng bá sâu rộng trong quần chúng, mà từ bao đới vốn chịu ảnh hưởng
khá sâu đậm văn học và văn hóa của Trung Quốc.Về chữ viết, mãi đến thế kỷ 20, từ
thi cử văn chương thi thơ đều bằng chữ Hán (chữ Nho), và tổ tiên ta viết bằng
chữ Hán, nhưng đọc theo âm Việt. Bên cạnh, chữ Nôm cũng ra đời từ lâu, nhưng vì
có nhược điểm nội tại (phải biết chữ Hán trước) nên chỉ giới hạn trong giới
“trí thức” mà thôi. Vào đầu thế kỷ 20, khi người Pháp đã đặt nền móng cai trị
khá vững chắc trên toàn cỏi nưóc ta, họ dĩ nhiên cũng tìm cách đánh bạt và thay
thế chữ Nho bằng chữ Pháp và cả ngôn ngữ Pháp . Và cũng thật may mắn cho dân tộc
Việt Nam, tiếng Pháp và văn hoá văn học Pháp cũng chỉ tồn tại trong khoản một
thế kỷ. và hầu như chỉ ảnh hưởng giới hạn trong số người ở thành thị, quan chức
và gia đình làm việc cho thực dân Pháp. Cũng may mắn nữa, chữ quốc ngữ được
hình thành ngay trong giai đoạn giao thời, nhờ công sức của ông cố đạo
Alexandre de Rhode và một số vị khác. Tiếp
theo, nhá bác học Trương Vĩnh Kỳ, và Huỳnh Tịnh Của đã hoàn thiện chữ quốc ngữ.
Hai vị nầy cũng đã cho ra đời những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ, nhưng phải đợi
đến nhà văn HBC thì chữ quốc ngữ mới được
phong phú hoá thêm, tạo cho quốc ngữ
thành một thứ sinh ngữ năng động .
Điểm kế tiếp là
chính nhà văn Hồ Biểu Chánh đã có công phổ biến chữ quốc ngữ trong xã hội, ít
ra là tại miền Nam. Ông đã phổ biến “chữ nước ta” bằng việc làm cụ thể qua 64
quyển tiểu thuyết cùng những tác phầm văn học khác của ông đã âm thầm nhưng thật
chắc chắn thấm sâu vào quần chúng. Cùng liên quan suy nghĩ nầy, càng về sau, rất
nhiều nghiên cứu liên quan đến tác giả họ Hồ càng nở rộ. Xin chỉ xét về phương
diện văn học thuần tuý, từ sau 1975, trong nước đã nhiều cuộc hội thảo, nhiều
khảo cứu. . . đã khẳng định chỗ đứng thật vô cùng chính đáng và chính xác của
ông Hồ Biểu Chánh. Trong một bài khảo luận của tiến sĩ Hồ Sỉ Hiệp, với bài “Hồ
Biểu Chánh, nhà văn tiên phong” đã nhận định: “. . . Tiếp thu kỷ thuật xây dựng tiểu thuyết phương Tây, Hồ Biểu Chánh
đã góp phần cách tân thể loại tiểu thuyết về các mặt xây dựng cốt truyện,tình
tiết bố cục tác phẩm,tâm lý nhân vật cho đến ngôn ngữ văn chương.Cổ xe chở tư
tưởng là chữ quốc ngữ, trước đó nặng nề ì ạch, đến đây đã được đẩy đi một cách
nhẹ nhàng,phăng phăng lướt trên những dậm đường văn học mới.Đó là công lao của
của anh phu xe tiên phong :Hồ Biểu Chánh. . “(www.tiengiang.gov.vn).
3/
Tác giả là một sử gia.
Ông
không làm công việc của một sử gia, nhưng ông đã thực tả gần như toàn cảnh xã hội
miền Nam,cho dù những tác phẩm được phóng tác từ câu chuyện nước ngoài, nhưng
ông đã khép léo lồng vào bối cảnh miền
Nam V.N.Ông đã cho chúng ta thấy lại hình ảnh những cánh đồng, những con đường,
con sông, cơ quan hành chánh, bến xe bến tàu. . . với những điạ danh quen thuộc
với độc giả từng vùng.Đó là cảnh vật của các tỉnh Gò Công, , Mỹ Tho, Vỉnh Long,
Long Xuyên. . hay vào tận các quận Ô Môn (Long Xuyên), Bình Thủy (Cần Thơ),
Vũng Liêm (Vĩnh Long). Để nhận rõ hơn về sự kiện nầy, xin được đôi nét về miền
Nam.Đất Nam Kỳ, qua nhiều thay đổi, mãi đến sau năm 1870, miền Nam Kỳ là từ
ranh tiếp giáp Bình Thuận đến tận mủi Cà Mau, khi ngài Lê văn Duyệt làm tổng trấn,
gọi là Gia Định Thành. Khi vua Minh Mạng lên ngôi, lần lượt đổi thành “Nam Kỳ lục
tỉnh”. Đất Nam Kỳ là thuộc địa, trong “Liên Bang Đông Dương” thuộc Pháp. Tuy là
thuộc địa, nhưng Pháp đã vẫn xử dụng cơ cấu quan lại triều Nguyễn. Quan lại gồm
9 cấp (phẩm), bên cạnh các quan Việt Nam, còn hệ thống quan Pháp, mà các quan
chức tương đương tứ phẩm trở lên , được gọi là”quan lớn”.Người bản xứ (như Hồ
Biểu Chánh), học và thi vào ngạch “thống sứ Nam Kỳ”, sẽ được cử làm các chức
như:thầy thông(thông ngôn), thầy ký(thơ ký),
quan chủ Quận, Quan Phủ, rồi quan Đốc Phủ Sứ là cao nhứt. Để khai thác
tài nguyên làm giàu cho thực dân, họ cũng đã khai phá, mỡ mang, đào kinh, mở đường,
thiết lập các cơ quan đo đạc, thông tin. . . Từ đây, phát sinh các quan chức mới
là: ông đốc tờ, quan trạng sư, đốc học, quan kinh lý, cu li, lục lộ. Về xã hội,
rõ ràng chia ra hai bộ mặt khác nhau: nông thôn và thành thị. Thành thị thì bắt
đầu phồn vinh, phát sinh những sinh hoạt mà trước đây chưa có như: cờ bạc, đỉ
điếm, hút á phiện. . . , đồng thời phát sinh lớp trưởng giả sống theo Tây. . Về
mặt hành chánh, dưới cấp tỉnh, đã có huyện và “tổng” vơi quan cai tổng, cấp
làng có ban hội tề. Hội tề gồm các chức sắc như: hương cả, hương chủ, hương
giáo, hương trưởng, hương quản. hương hào, chánh lục bộ. v.v. Đây là cấp chánh
quyền gần gủi nhứt với dân chúng, mà không hiếm nơi xảy ra chuyện chủ điền hà
hiếp lương dân, chiếm ruộng. Cũng không hiếm viên chức làng xã thuờng đứng về
phía bá hộ, chủ điền. . ., biến lớp dân nghèo thành những “dân oan” khốn khổ và
oan ức. Chính trong bối cảnh xã hội nầy (mà chắc là nơi ông làm việc hay qua lại
nhiều lần), tác gỉả Hồ Biểu Chánh đã
miêu tả thật vô cùng sinh động những
sinh hoạt của nhân vật. (rất có thể người đọc truyện của họ Hồ cảm tưởng mình
là nhận vật trong đó và chính vì vậy mà
người đọc mê tiểu thuyết của ông.). Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Thắng ,đã nhận
xét như sau: “tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
đã một thời làm mưa làm gió ,không những ở các thành phố mà người đọc ở nông
thôn xa xôi vẫn say mê đọc không biết chán.Đây là một bức tranh hiện thực ,đa dạng,giúp
bạn đọc toàn quốc thấy rõ bộ mặt thực của xã hội miệt vườn Nam Bộ.Đó là tính
cách đa dạng,phong phú không những về mặt chất lượng và nghệ thuật ngôn từ tình
cảm của mỗi cá nhân vật trong sáng tác của ông” (www.namkyluctinh.org.). Có vài tác giả
đã nói rõ, nếu muốn biết xã hội miền Nam thời nửa thập kỷ 20, phải đọc Hồ Biểu
Chánh, là một kết luận thật vô cùng chính xác.
4/- Văn dĩ tải đạo
Ông Hồ Biểu Chánh,
cũng như hầu hết những nhà cựu học của nền văn chương quốc ngữ thời phôi thai,
với mục đích là dùng văn chưong như phương tiện chuyên chở, quảng bá đạo lý,
thiện luôn thắng ác, nói chung tất cả là một bài học dạy đời. Chính tác giả,
trong bút ký “đời của tôi về văn nghệ”, ông đã tâm sự : “. . viết tiểu thuyết với ý muốn cảm hoá quần
chúng theo con đường chánh trực, đề cao những giá trị truyền thống của dân tộc
như: lễ nghiã, nhân đạo, thuyết nhân quả” (sách đã dẩn, trang 33, tập san ĐNCL số 3, trang 176). Với mục tiêu
trên, ông đã xây dựng những nhân vật, trong hầu hết những truyện, theo một chìu
hướng nhứt định, gần như một qui luật: tất cả hướng về cái thiện. Về những nhân
vật do tác giả dựng lên, thường cái tốt, cái thiện hoặc tiềm ẩn hoặc bộc lộ, những
kẻ lầm lạc, sau cùng cũng biết mình sai lạc mà trở về nẻo chánh. Những nhân vật
độc ác, lúc đầu cực đoan nham hiểm xấu xa lầm lạc sa ngả, nhưng chỉ cần có cơ hội,
đều “ngộ”, để trở thành người ngoan ngoãn, biết nhận ra tội ác của mình. Đặc biệt,
ông không cho rằng sự gian ác là bản chất, mà có thể do điều kiện thuận lợi,
như bọn chủ điền, quan lại, và có thể giáo hoá họ, thay đổi họ. Vì vậy, mà
trong nhiều tác phẩm đôi lúc ông trở thành “nhà luân lý” thuyết giảng đạo đức,
hoặc “sư ông” mang thuyết luân hồi nhân quả răn đe. Ông cũng lấy những kết thúc
câu chuyện, mà những nhân vật làm ác luôn gánh lấy hậu quả. Thí dụ: trong tác
phẩm “Khóc Thầm”, nhân vật “Vĩnh Thái, xảo
trá mà lại gian dâm, trời khiến nó phải chết một cách khốn nạn như vậy” hoặc
nhân vật Chí Cao, trong phim “Tình Án”(chuyển thể từ Cư Kình). Tay nầy là nhà
văn đa tình, có người vợ đầu gối tay ấp, hy sinh cho hắn ta. Sau khi chán chê,
hắn bỏ về quê, có dịp lân là làm quen với cô con gái ông huyện Hàm Tân.Cố gái
theo mới, mê truyện tiểu thuyết tình cảm, và mê cả nhà văn. Hắn đã bị trả quả bằng
cái chết khá éo le, mà sau khi xem “Tình Án” kéo dài 22 tập, khán giả mới hiểu
ra, thủ phạm là cô con gái ông Hàm Tân, trong khi lúc đầu mọi người và cả tòa
án đều nghi thủ phạm là vợ củ giết hắn ta vì ghen tương. Như cậu hai Nghiã
trong “Con Nhà Nghèo” tham lam bạc tình, trong cuối đời phải chứng kiến cảnh
gia đình tan nát, con cái không hạnh phúc, biết quan kinh lý là con nhưng không
thể nhìn. Càng tệ hại hơn, không khéo xảy ra chuyện loan luân, vì quan kinh lý
chính là đứa con bị bỏ rơi của ông, suýt làm rễ của mình nếu cưới con gái cũng
của ông. Cũng như, trong truyện “Tại Tôi”, nhân vật bà cả Kim vì quan niệm cổ hủ, đã ép con dâu
và con ruột mình vào bước đường cùng, là cái chết.Cuối cùng bà ta đã phải buột
miệng tự nhận “Tại Tôi Tất Cả”. . Điều quan trọng cần ghi ra tiếp theo là, về
căn bản, có thể nói ông luôn đứng về phiá “nghèo”, những dân đen trong xã hội
phong kiến, bất công. Bàng bạc trong các truyện tiểu thuyết của ông, tư tưởng
luân lý, tinh thần bao dung hoà hợp đông tây. Điều đặc biệt nữa là ông không chủ
trương “đột phá”, đến độ quá khích, như các tác giả hay một nhóm nào khác. cụ
thể như “Tự Lực Văn Đoàn” với chủ trương đổi mới, mà hình ảnh là cái chết của
nhân vật Thân trong truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Ngược lại, ông Hồ Biểu Chánh đã nêu bật tinh
thần bao dung, hoà hợp trong một cuộc “cách mạng êm dịu”. Xin được chi tiết một
vài thí dụ như sau:
Thứ
nhứt trong chuyện tình yêu, vẫn theo nguyên tắc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”,
nhưng cũng có trường hợp gia đình quan niệm rộng rãi, tự do trong lứa đôi, cả
trường hợp “tiền dâm hậu thú” (trong truyện Ai Làm Được). Tiếp theo là tin vào
luật nhân quả, sự đầu thai(trong tác phẩm Tơ Hồng Vương Vấn), con người cũng
tin vào Trời Phật, ông bà tổ tiên như hầu hết người dân miền Nam(truyện Một Đời
Taì Sắc).Đặc biệt, ông cũng nâng cao vai trò phụ nữ, những phụ nữ có học thức
cao (truyện Khóc Thầm, Tân Phong Nữ Sĩ). . . Tóm lại, hầu hết các truyện của
ông Hồ Biểu Chánh đều kết thúc “có hậu”, điều thiện , lòng tốt luôn thắng và điều
ác kẻ xấu phải bị thua và đền tội hoặc phải biết ăn năn . Ông chủ trương cải
hóa con người bằng lòng nhân, hoà giải bao dung, tha thứ. Đây đúng là “tính
cách” của người miền Nam.Cụ thể nhứt người
ta thấy được qua phim”Thế Thái Nhân Tình”( đáng lẽ phải là Nhơn Tình),nhân vật
hội đồng Cao Xuân Huỳnh đã gây quá nhiều tội ác “trời không dung, đất không
tha” như: giết vợ bị bệnh bằng cách hốt những thang thuốc
độc,cho người đánh chết ông thầy giáo vì đã dám yêu cô đào hát là “bồ” của tay
hội đồng Tín, đã cho người đánh chết người giúp việc, và đặc biệt đã cướp vợ của
ông cai tổng. . .Tóm lại, tay nầy đã phạm quá nhiều tội lỗi, đáng ra phải bị luật
pháp hay luật trời xử tội chết,nhưng chỉ bị “trời phạt” bằng cách hai chân bị gảy
không đi lại được và lại được sự thuyết giảng của nhân vật hiền đức là cai tổng
Tâm.Cuối cùng là tay đã gây trọng tội đã biết sám hối,sống những ngày còn lại với
sự tha thứ của những người xung quanh,kể cả bà vợ mà ông ta ra tay giết bằng
cách đầu độc(nhưng đã được cô giúp việc thông báo và trốn thoát). . Có phải là
một sự giáo hoá quá nhẹ nhàng chăng? Thêm nữa, xét về bản thân, ông HBC là một
viên quan cao cấp, nhưng hoàn toàn không phải là một tay cường hào ác bá” hà hiếp
lương dân”. Tài liệu ghi lại cho chúng ta thấy ông là một viên quan thanh liêm
và ngay thẳng. Điều thể hiện rõ nét là qua hầu hết các tác phẩm, ông luôn đứng
về giai cấp nghèo hèn, bi bốc lột. Và cuộc sống gia đình, ông rất đáng như một
tấm gương. người ta đã, qua ngươì con ruột là Hồ văn Kỳ Trân, xem được thư viết
tay ông Biểu Chánh gởi cho con, như sau:”. . .ba chỉ nói với con rằng sự nghiệp của ba để lại cho các con hiện thời
chỉ có một tấm gương ngay thẳng và trong sạch mà thôi. Ba ước mong các con noi
theo tấm gương ấy mà lập thân. . .” (trang đầu tạp chí Văn cùng số).
Đây
cũng là câu kết cho tài liệu tóm lược về nhà văn Hồ Biểu Chánh, một cây cổ thụ
trong văn học Việt Nam.
I/Tài liệu tham khảo:
1/- Sách,tạp chí:
-Tạp chí Văn (số 80, phát hành ngày
15/4/1967 tại Sài gòn, Việt Nam)
-Đặc san Đồng Nai Củu Long ,(số 1-2004 ),
do Lê văn Duyệt Foundation,phát hành tại Nam Cali-Hoa Kỳ.( Xã hội miền Nam
trong tiểu thuyết HBC)
-Đặc san Đ N C L (số 3-2006) (bài “ngôn
ngữ HBC”,tác giả Nguyễn Vy Khanh.
-Các bài:” Xã hội văn hoá VN trong tiểu
thuyết của HBC” tác giả Nguyễn Thanh Liêm”
“Tính cách người nông
dân Nam Bộ trong tiểu thuyết HBC,tác giả Huỳnh thị Lan Hương
(tạp chí KH,trường
Đại Học Cần Thơ)
“Tiểu thuyết xuất
hiện tại Nam Kỳ,tác giả John C.Schaffer &Thế Uyên (www.hobieuchanh.com)
-Hồ Biểu Chánh,nhà văn có nhiều tác phẩm
nhất Việt Nam,tác giả Nguyễn Phúc Nghiệp (www.thtg.vn.com )
-Tự Điển Văn Học, do nxb Văn Học, phát
hành 1983 tại Hà Nội,Việt Nam.
- Hổ Biểu Chánh:nhà văn lớn của miền
Nam, Lâm văn Bé (Nhựt báo Sàigòn Nhỏ,số 1216,ngày 8/tháng 9/2012,phát hành tại
quận Cam,Nam cali,Hoa Kỳ)
2/- Các trang
web:
-www.hobieuchanh.com
-www.aihuubienhoa.org
-www.tiengiang.gov.vn
-www.dactrung.net.
-https://vi.wikipedia.org/wiki/hobieuchanh.
-www.chungta.com
-https://nld.com/vn
www.nguoitinhhuvo.wordpress.com
3/- Các phim
ảnh phóng tác từ truyện của tác già Hồ Biểu Chánh.
Ngọn Cỏ Gió Đùa,Con Nhà Nghèo, Lòng Dạ Đàn Bà, Chúa Tàu Kim Qui,
Cay Đắng Mùi Đời, Tân Phong Nữ Sĩ, Tại Tôi, Ải Mỹ Nhân,Thế Thái Nhân Tình.
II/ Chú thích:
1/-Tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh
a/ Tiểu thuyết(theo thứ tự a,b,c)
1 1912 Ai làm được (Cà Mau 1912)
40 1941 Ái tình miếu ( Vinh Hội - 1941)
32 1938 Bỏ chồng (Vinh Hội - 1938)
33 1938 Bỏ vợ (Vinh Hội - 1938)
49 1953 Bức thơ hối hận (Gò Công - 1953)
2 1923 Cay đắng mùi đời (Sài Gòn 1923)
13 1929 Cha con nghĩa nặng (Càn Long- 1929)
63 1957 Chị Đào, Chị Lý (CL - 1957)
44 1944 Chị Hai tôi (1944)
3 1923 Chúa tàu Kim Qui (Sài Gòn 1923)
11 1928 Chút phận linh đinh (Càn Long -1928)
19 1931 Con nhà giàu (Càn Long - 1931)
17 1930 Con nhà nghèo (Càn Long - 1930)
41 1941 Cư Kỉnh (Vĩnh Hội - 1941)
20 1935 Cười gượng (Sài Gòn - 1935)
53 1955 Đại nghĩa diệt thân (Sài Gòn - 1955)
21 1935 Dây oan (Sài Gòn -1935)
51 1954 Đỗ Nương Nương báo oán (SG-1954)
27 1936 Đoá hoa tàn (Vinh Hội - 1936)
39 1940 Đoạn tình ( Vĩnh Hội -1940)
64 1957 Đón gió mới, nhắc chuyện xưa (VH- 1957)
54 1955 Hai chồng (Sài Gòn - 1955)
37 1939 Hai khối tình (Vĩnh Hội - 1939)
45 1944 Hai Thà cưới vợ (1944)
55 1955 Hai vợ (Sài Gòn - 1955)
65 1957 Hạnh phúc lối nào (Sài Gòn - 1957)
12 1928 Kẻ làm người chịu (Càn Long - 1928)
14 1929 Khóc thầm (Càn Long - 1929)
56 1955 Lá rụng hoa rơi (Sài Gòn - 1955)
29 1937 Lạc đường ( Vinh Hội - 1937)
71 1958 Lẫy lừng hào khí (Vĩnh Hội - 1958)
34 1938 Lời thề trước miễu (Vinh Hội- 1938)
22 1935 Lòng dạ đàn bà (1935)
43 1943 Mẹ ghẻ con ghẻ (Vinh Hội - 1943)
4 1923 Một chữ tình (Sài Gòn - 1923)
46 1944 Một đóa hoa rừng (1944)
23 1935 Một đời tài sắc (Sài Gòn - 1935)
58 1956 Một duyên hai nợ (Sài Gòn - 1956)
6 1924 Nam cực tinh huy (Sài Gòn - 1924)
52 1954 Nặng bầu ân oán (Gò Công - 1954)
18 1930 Nặng gánh cang thường (C.Long-1930)
47 1944 Ngập ngừng (1944)
9 1926 Ngọn cỏ gió đùa (Sài Gòn-1926)
35 1938 Người thất chí (Vinh Hội -1938)
15 1929 Người vợ hiền (1929) ?
7 1925 Nhơn tình ấm lạnh (Sài Gòn - 1925)
59 1956 Những điều nghe thấy (Sài Gòn- 1956)
28 1936 Nợ đời (Vĩnh Hội - 1936)
66 1957 Nợ tình (Vĩnh Hội - 1957)
67 1957 Nợ trái oan (Vĩnh Hội - 1957)
24 1935 Ở theo thời (Sài Gòn - 1935)
60 1956 Ông Cả Bình Lạc (Sài Gòn - 1956)
25 1935 Ông Cử (Sài Gòn - 1935)
68 1957 Sống thác vì tình (nt - 1957)
36 1938 Tại tôi (Vinh Hội - 1938)
30 1937 Tân Phong nữ sĩ (Vinh Hội - 1937)
69 1957 Tắt lửa lòng (Vĩnh Hội - 1957)
48 1944 Thầy Chung trúng số (1944)
10 1926 Thầy thông ngôn (Sài Gòn - 1926)
26 1935 Thiệt giả, giả thiệt (Sài Gòn - 1935)
8 1925 Tiền bạc, bạc tiền (Sài Gòn - 1925)
38 1939 Tìm đường (Vinh Hội - 1939)
5 1923 Tình mộng (Sài Gòn - 1923)
57 1955 Tơ hồng vương vấn (1955)
61 1956 Trả nợ cho cha (Sài Gòn - 1956)
50 1953 Trọn nghĩa vẹn tình (Gò Công - 1953)
70 1957 Trong đám cỏ hoang (Phú Nhuận - 1957)
31 1937 Từ hôn (Vinh Hội - 1937)
16 1929 Vì nghĩa vì tình (Càn Long - 1929)
62 1957 Vợ già chồng trẻ (Phú Nhuận - 1957)
42 1942 Ý và tình (Vinh Hội - 1938 - 1942)
_____________________________________________________________________________
b/-. Dịch thuật:
Tân soạn cổ tích (cổ văn Trung Quốc, Sài Gòn-1910)
Lửa ngún thình lình (dịch tiếng Pháp, SG, 1922)
c/. Thơ:
U tình lục (Sài Gòn – 1910)
Vậy mới phải (Long Xuyên – 1913)
Biểu Chánh thi văn (Tập 1,2, 3-bản thảo)
d/-. Tùy bút phê bình:
Chưởng hậu quân Võ Tánh (Sài Gòn – 1926)
Chánh trị giáo dục (Gò Công – 1948)
Tùy bút thời đàm (Gò Công – 1948)
e/ Hồi ký
-Ký ức cuộc đi Bắc Kỳ (1941)
-Mấy ngày ở Bến Súc (1944)
-Đời của tôi
-Về quan trường.
-Về Văn nghệ
3. Về phong trào cách mạng
-Một thiên ký ức: Nam Kỳ cộng hòa tự trị (Gò Công – 1948)
-Tâm hồn tôi (Gò Công – 1949)
-Nhàn trung tạp kỷ (tập i, ii, iii Gò Công – 1949)
f. Tuồng hát:
Hài kịch: - Tình anh em (Sài Gòn – 1922)
Toại chí bình sinh (Sài Gòn – 1922)
Đại nghĩa diệt thân (Bến Súc – 1945)
Hát bội: - Thanh Lệ kỳ duyên (Sài Gòn 1926 – 1941)
Công chúa kén chồng (Bình Xuân – 1945)
Xả sanh thủ nghĩa (Bình Xuân – 1945)
Trương Công Định qui thần (Bình Xuân – 1945)
Cải lương:
Hai khối tình (Sài Gòn – 1943)
Nguyệt Nga cống Hồ (Sài Gòn – 1943)
Vì nước vì dân (Gò Công - 1947)
g. Đoản thiên:
Chị Hai tôi (Vĩnh Hội – 1944)
Thầy chùa trúng số (Vĩnh Hội – 1944)
Ngập ngừng (Vĩnh Hội )
Một đóa hoa rừng (Vĩnh Hội – 1944)
Hai Thà cưới vợ (Vĩnh Hội)
Hai chồng (Vĩnh Hội )
Hai vợ (Sài Gòn – 1955)
Lòng dạ đàn bà (Sài Gòn – 1955)
h. Truyện vắn:
Chuyện trào phúng, tập i, ii (Sài Gòn – 1935)
Chuyện lạ trên rừng (Bến Súc – 1945)
Truyền kỳ lục (Gò Công – 1948)
i. Biên khảo:
Pétain cách ngôn Á đông triết lý hiệp giải (Sài Gòn – 1942)
Gia Long khai quốc văn thần (Sài Gòn – 1944)
Gia Định Tổng trấn (Sài Gòn)
Chấn hưng văn học Việt Nam (Sài Gòn – 1944)
Trung Hoa tiểu thuyết lược khảo (Sài Gòn – 1944)
Ðông Châu liệt quốc chí bình nghị (Bến Súc – 1945)
Tu dưỡng chỉ nam (Bến Súc – 1945)
Pháp quốc tiểu thuyết lược khảo (Bình Xuân – 1945)
Một lằn chánh khí: Văn Thiên Tường (BX 1945)
Nhơn quần tấn hóa sử lược (Gò Công – 1947)
Âu Mỹ cách mạng sử (Gò Công – 1948)
Việt ngữ bổn nguyên (Gò Công – 1948)
Thành ngữ tạp lục (Gò Công – 1948)
Phật tử tu tri (Gò Công)
Nho học danh thơ (Gò Công)
Thiền môn chư Phật (Gò Công – 1949)
Ðịa dư đại cương (Gò Công)
Hoàng cầu thông chí (Gò Công )
Phật giáo cảm hóa Trung Hoa (1950)
Phật giáo Việt Nam (1950)
Trung Hoa cao sĩ, ẩn sĩ, xứ sĩ (1951)
Nho giáo tinh thần (1951)
(2) Thanh Lãng (23/12/1924-17/12/1978)
Quê tại Nga Sơn, Thanh Hoá, tên thật
là Đinh Xuân Nguyên.Thuở nhỏ, từ 12 tuổi vào tiểu chủng viện, năm 1949 sang học
tại trường truyền giáo Roma(Ý), thụ phong linh mục 1953. Giáo sư Thanh Lãng đổ
tiến sĩ tại Fribourg (Thuỵ Sĩ), về nước năm 1957, là giáo sư tiểu chủng viện Bảo
Lộc; đồng thời giảng dạy tại Đaị Học Văn Khoa Sài gòn, Huế từ 1957 đến 1975.
Ông là chủ biên tạp chí: Việt Tiến,Trách Nhiệm, Nghiên Cứu Văn Học. Ông là tác
giả trên 10 bộ sách giá trị về văn học, nhà nghiên cứu khá tầm cở của miền Nam.
. Vài bộ sách tiêu biểu của ông có thể
ghi ra như: Bản Lược Đồ Văn Học Việt Nam(1967), Văn Học Việt Nam,Đối Kháng
Trung Hoa(1969), Văn Học Việt Nam(1969), Tự Điển Việt-La-Bồ (chung với LM Đổ
Quang Chính,Hoàng Xuân Việt).Sau năm 1975, ông tiếp tục phục vụ về ngành ngôn
ngữ của Viện Khoa Học Xã hội TP / HCM(Sài gòn.)
(3) Nguyễn Huệ Chi:
Sanh năm 1938 tại Hà Tĩnh. Là nhà
nghiên cứu văn học Việt Nam cổ trung và hiện đại. Từng giữ chức Truởng phòng
văn họcViệt Nam cổ cận đại của Viện Văn Học, chủ tịch Hội Đồng Khoa của Viện
KHXH .Năm 2009,cùng với nhà văn Phạm Toàn và giáo sư Nguyễn Thế Hùng,khởi xướng
trang mạng “bauxite VN”, khuynh hướng “không theo lề của nhà cầm quyền trong nước
chỉ đạo”. Có lúc, ông tỏ ra là người không lệ thuộc vào khuôn khổ.
(4) Thụy Khuê (25/9/1944-
Bà tên thật là Vũ thị Tuệ,quê ở
huyện Hải Hậu,Nam Định(Bắc phần).Bà vào Nam tháng 10/1954,học tại tư thục Văn
Lang,Tao Đàn và Gia Long(Sài Gòn).Năm 1962,bà du học tại Pháp và khoản 1984 có
lúc về Việt nam.Ba từng viết báo ,có bài đăng tên báo Tự Do(Bỉ),và công tác với
nhiều tờ báo tại hải ngoại(Pháp) như :Tự Do,Văn Học,Thông Luận,Thế Kỷ 21,Hợp
Lưu.Bà phụ trách mục văn học nghệ thuật trên dài RFI. Môt số tác phẩm cuả bà đã
xuất bản như:
-Nói
chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp.
-Sóng
Từ Trường
-Cấu
trúc thơ
-Văn
học miền Nam theo cach nhìn của Vương Trí Nhàn.
-Hồ
Hữu Tường.
Bà
được đánh giá là một trong những nhà phê bình văn học VN hải ngoại khá tầm cở .
(5)-Đông Hồ (10/3/1906-26/3/1969)
Ông tên thật là Lâm Tấn Phác, hiệu
Đông Hồ và Hoà Bích. Ông quê làng Mỹ Đức,
Hà Tiên, vì sống ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, một trong “Hà Tiên Thập Cảnh”, nên lấy
hiệu là Đông Hồ. Ông là nhà giáo, một thi sĩ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt. Năm 1926,lập Trí Đức học xá, chủ truơng
chuyên dạy tiếng Việt, đồng thời cộng tác với Nam Phong tạp chí.Năm 1935 lên
Sài gòn,xuất bản tuần báo Sống,nhưng thất bại quay về Hà Tiên nghiên cứu văn học
miền Nam.Năm 1950 lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yễm Yễm Thư Trang.Năm
1964, viết sách làm thơ và năm 1965 , được mời phụ trách môn “Văn Học Miền Nam”
tại trưòng Đại Học Văn Khoa Sái gòn. Ông
cũng có thời tham gia kháng chiến chống Tây.
Ông là tác giả nhiều
bộ sách như:
-Thơ Đông Hồ, Hà
Tiên Thập Cảnh
-Những lỗi thường lầm
trong sự học Quốc văn
-Năm ba điều ghĩ về
truyện Kiều
- Văn học miền Nam
(tập hợp những bài giảng tại Văn Khoa /Sài gòn)
-. . .
Ông qua đời vào ngày
26/3/1969 khi đang say sưa giảng bài tại Đại Học nầy. Ông ra đi trong vòng tay
của những sinh viên học trò của ông.
(6)- Nguyễn văn Trung (1930-2004)
Ông tên thật là Nguyễn văn Trung,
sinh năm 1930 tại Hà Nam (Bắc Phần). Từ 1950-1955 du học, ngành triết học, và đổ
bằng tiến sĩ tại Bỉ. Về nước và từ 1955-1975, dạy Đại Học Văn Khoà-Sài gòn và
sinh hoạt văn hoá ngoài đại học. Trong thời gian dạy đại học, ông cũng là cây
bút chủ lực của nhiều tạp chí tầm cở như:Đại Học(Huế), Sáng Tạo, Đất Nước, Hành
Trình(Sài gòn).Ông là tác giả một pho tài liệu,tác phẩm về văn hoá, triết học
như:Văn Chương Và Chánh Trị, Danh Từ Triết Học, Biện Pháp Giải Thoát Trong Phật
Giáo, Nhận Định. . .Từ năm 1994-2004, ông sống tại Canada, đã hoàn tất nhiều
tác phẩm lớn,trong đó có những tập “Nhận Định,Tưởng Niệm Việt Nam Cộng Hoà,
Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian,Tìm Hiểu Con Người Ở Vùng Đất Mới.”.
(7)-Hồ Hữu Tường
(1910-1980).
Đây
là một nhân vật khá đăc biệt của miền Nam.Ông quê tại Cái Răng Phong Điền -Cần
Thơ. Năm 1926, sang Pháp học tại đại học Marseilles,tốt nghiệp cao học toán.Tại
Pháp, ông kết bạn với những nhà áí quốc lưu vong như:Nguyễn Thế Truyền, Tạ Thu
Thâu,Phan văn Hùm.Năm 1932,bị bắt với án treo là 3 năm.Vế chánh trị, có thời
theo “cộng sản đệ tứ”,và năm 1939 tuyên bố
từ bỏ.Cuối năm nầy,lại bị bắt và đày ra đảo Côn Sơn, năm 1944 được tự do.
Trong thời gian nầy, ông thành hình một hệ thống tư tưởngmới theo chủ nghiã dân
tộc không theo Tây, Nga, Mỹ, và sau nầy theo chủ nghiã dân tộc và chủ trương
trung lập. Năm 1955 lại bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực
Quốc Gia (gồm Cao Đài, Hoà Hão, Bình Xuyên), chống lại Thủ Tướng Diệm.Năm1957,
bị kết án tử hình, được quốc tế can thiệp,chỉ đài ra Côn Đảo,và đến 31/1/1964
được trả tự do. Ông cũng có đề nghị “Liên Hiệp Quốc Hoá” miền Nam VN,. Vào năm 1965 làm Phó Viện Trưỏng Viện Đại Học Vạn
Hạnh. Năm 1967,trúng cử dân biểu trong Hạ viện VNCH. Năm 1975, ông chưa bị bắt
cho đến khi ông gởi tài liệu cho nhà cầm quyền Cộng sản với đề nghị “Việt Nam
trung lập” và đến 26/6/1980 bị bệnh nặng
và chết sau thời gian ngắn được “tạm tha”.
Hồ
Hữu Tường là một nhân tài, một chánh trị gia, một nhà báo, một nhà giáo dục, một
nhà văn,và một “ tù nhân gia”. Tác phẩm của ông khá nhiều, đủ các thể loại và
trong nhiều lảnh vực, có thể ghi ra một số tiêu biểu như:
- Xã Hội Học Nhập
Môn, Kinh Tế và Chánh Trị Nhập Môn,Vấn Đề Dân Tộc và Phong Kiến là gì,Muốn Hiểu
Chánh Trị. . .
-Lịch Sử Văn Chương
Việt Nam, Phép Nói và Viết Hỏi Ngã.
-Sách dịch: Tam Quốc
Chí,
-Sách truyện : Phi Lạc
Sang Tàu,Phi Lạc Náo Huê Kỳ. .
-Tiểu Luận: Những Kỷ
Thuật Căn Bản Của Nghề Làm Báo:
-Về văn học, ông
cũng viết khá nhiều sách, tùy bút. . .
Và sau hết, về tư
cách là một “tù nhân gia”, rõ ràng chính xác vô cùng. Ông đã trải qua nhiều năm
tù tội, trong thời Pháp thuộc, thời Đệ Nhứt Cộng Hoà, và thời Cộng Sản nắm
chánh quyền. Trong nhà tù, có một tù nhân trẻ “xem bói” phán rằng “số bác ở tù
hoài là đúng rồi”, vì tên bác là “Hữu Tường” tức nói ngược lại là “hưởng tù”. Ông
Tường buộc miệng khen: “Thằng em mầy nói vậy mà đúng”. Thật tiếc cho một nhân
tài miền Nam.
8/ Phạm Thế Ngũ(1921-2000).
Ông người huyện Bình Giang (Hải
Dương), lúc nhỏ học chữ Hán, rồi sơ học Pháp, trung học Hà Nội(trường Bưởi,Chu
vănAn), đổ tú tàí năm 1944.Hành nghề dạy học năm 1947,và sau đó về học văn khoa Hà Nội, đổ cử
nhân 1953. Năm 1954 di cư vào Nam, lần lượt dạy trung học Nha Trang, Phan Thanh
Giản, Cần Thơ và Petrus Ký, Sài gòn. Vừa dạy học, vừa nghiên cứu viết sách. Ông
cũng có một nhà in riêng, tự xuất bản sách của mình. Một trong những đầu sách
khá quan trọng là “Việt Nam Văn Học Sử Giản Yếu Tân Biên” .Theo một số những
tác giả nghiên cứu, tuy mang từ “giản yếu”,nhưng đây là một tài liệu văn học
khá đầy đủ và rất “ngay thẳng” rất quen thuộc
với học sinh thời trước 1975 ở miền Nam .
9/-Mai Quốc Liên:
Ông sinh ngày
8/3/1941. tại quận Điện Bàn-Quảng Nam.Ông tốt nghiệp cử nhân ngữ văn tại Hà Nội,
cử nhân Hán học 1970 và cao học 1972, là một nhà nghiên cứu tầm cở của Viện Hán
Nôm.Năm 1975, chuyển công tác vào Nam, dạy tại đại học sư phạm Sài Gòn. Ông từng
giữ chức giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học,Phó CT Hội Đồng Lý Luận.Một số
tác phẩm của ông về văn học, phê bình văn học như: Nhà Thơ Cơn Bảo và Những
Cánh Hoa, Dưới Gốc Me Mồ Nguyễn Huệ,Trước Đèn. . .
Ông là một người có thực tài,
trình độ căn bản và đặc biệt là có bản lĩnh và khá “thắng thắn”.Do vậy, ông là
một bông hoa “sống gần bùn mà ít hôi
tanh mùi bùn”.Cũng chính ông,là một nhà phê bình văn học đã tôn vinh nhà văn Hồ
Biểu Chánh là một đại văn hào.
10/Trần Bạch Đằng: (15/7/1926----16/4/12007).
Quê Giồng Riềng
(Kiên Giang), theo Cộng sản từ năm 17 tuổi, từng là bí thư thành ủy Sàigòn
trong thời còn chiến tranh, ông cũng là trưởng ban Tuyên Huấn Trung Ương Cục Miền
Nam. Về gốc độ nào đó, ông là một nhân vật có kiến thức, khá có uy tín trong đảng
Cộng sản. Ông cũng là nhà văn, ký giả, viết nhiều bài đăng trong báo Saì Gòn Giải
Phóng. Ông nầy khi viết văn mang ba bốn tên, trong đó tên Nguyễn Trường Thiên
Lý được biết đến nhiều qua truyện, được phóng tác thành bộ phim “Ván Bài Lật Ngửa”
.Đây là một bộ phim vơi “hư cấu quá mức” , trong đó nhân vật
chánh là Nguyễn Thành Luân,gián điệp nhị trùng hoạt động trong giới chánh quyền
VNCH.Xin miễn nói đến khiá cạnh “thực hư, có không”, bộ phim khá ăn khách, với
nhân vật Nguyễn Thành Luân, do tay tài tử đẹp trai là N.C.Tín thủ vai.Thât vô
tình,khi viết bài nầy thì nổ ra vụ”phá sản” của NCT, với những chi tiết “lu bu”
.