ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀNG, TRƯỜNG SA

Hoàng, Trường Sa, một phần lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam từ bao đời. Ngày nay hai quần đảo đã, đang và sẽ bị Trung Cộng ngang ngược xâm lấn. Sự kiện nầy đã được người Việt Nam khắp năm châu, cũng như các nhà nghiên cứu quốc tế, các luật gia đề cập đến quá nhiều, với tài liệu dài ngắn khác nhau.Đặc biệt, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu” “bên lề trái và phải” trong nước, và các nhà nghiên cứu, các người trong cuộc đã dày công biên soạn về đề tài nầy. Chúng tôi, dùng từ “người trong cuộc” để  chỉ những vị sĩ quan, binh sĩ trong quân lực VNCH đã anh dũng trực diện chiến đấu, chỉ huy chiến đấu chống lại sự lấn chiếm ngang ngược, vô cùng dã man của Tàu. Trong tài liệu nầy, chúng tôi cố gắng  ghi ra “đôi điều”,  với ý hướng muốn trình bày một số nét căn bản, cốt lõi để khẳng định, chúng ta cần khẳng định, hai quần đảo nầy là của Việt Nam. Vấn đề nầy, thật không phải mới lạ, mà đã có quá nhiều khía cạnh cần đề cập, phân tích, trong đó nổi bật nhứt có lẽ là vấn đề chủ quyền, hình thức thụ đắc. . .  Sự xâm lấn của bọn bá quyền T.Q đã diển ra hàng ngàn năm trên đất liền, lãnh thổ “núi liền núi, sông liền sông”. Ôi, thật là một oan khiên.  Riêng trên biển Đông, vấn đề chỉ rộ lên, biển Đông chỉ dậy sóng từ khoản thập niên 1950, và đặc biệt từ khi Cộng sản VN làm chủ nửa phần đất nước. Gần đây, chỉ trên dưới 10 năm, thế giới và người V.N mới nghe xuất hiện “cái lưỡi bò” do T.C nêu lên, cái lưỡi gớm ghiết hôi tanh nầy chưa từng xuất hiện trong sử  sách của thế giới, và nhứt là trong tài liệu sách vở cuả Trung Cộng. Tại sao có cái lưỡi kỳ dị như vậy. Điều vô cùng quan trọng là vào năm 2016, quốc gia Phi Luật Tân khởi kiện, và toà án quốc tế và toà La Haye đã ra phán quyết bác bỏ hoàn toàn lý luận của Trung Cộng, và rằng Trung Cộng không có chút mải mai nào về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng và Trường Sa, cũng như phần lảnh hải của Phi.

Với tài liệu khiêm nhường nầy, chúng tôi chỉ bỏ công sưu tập, hệ thống những văn bản và sự kiện liên quan, và luôn không muốn phê phán, xin để lịch sử nhận lấy phần việc nầy. . . Trước khi đề cập vài nội dung chính, cần sơ lược lại đôi điều về hai quần đảo vốn thuộc Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Tài liệu nầy dùng chữ “Đội điều. . .”, vì vụ việc như đã nói, phải hàng nhiều trăm trang, không phải chỉ tóm gọn như tài liệu sau đây.


CHƯƠNG MỘT:

Quần đảo Hoàng và Trường Sa

I/- Sơ Lược:

1/-Hoàng Sa:

          Theo từ tiếng Anh,Hoàng Sa là Paracel Islands và theo Việt Nam, Hoàng Sa là “bãi cát vàng” hay “cát vàng”. Theo tài liệu, về lý lịch cái tên, vì nơi đây có lần tàu mang tên Paracels đụng phải đảo nầy nên mang tên nầy luôn, và cũng có thuyết nói rằng Paracel là tiếng Bồ Đào Nha, nghiã là đá ngầm.Đây là một nhóm đảo san hô, nằm về phía đông của Việt Nam, ngang  từ khoản giữa từ phía nam của Trung Phần Việt Nam. Quần đảo có khoản 30 đảo, nhưng nếu tính cả, bải đá nổi và chìm (chỉ nổi khi nước xuống và chìm khi nước dâng lên) có tài liệu ghi nhận khoản 130. Cần phải nói ngay là quần đảo nầy chỉ cách miền Trung VN bằng 1/3 so với khoản cách với Philippines. Đảo H.S chỉ cách đảo Lý Sơn (cù lao Chàm) của VN 200 hải lý, và cách đảo Hải Nam của Tàu Cộng 230 hải lý. ( Xin lưu ý, trong tài liệu nầy, vài con số về sự kiện khoảng cách, có nêu lại vài ba lần, không phải là sơ sót dư thừa, mà theo thiển nghĩ, càng nhiều lần càng tốt, để dễ nhập tâm mà thôi.). Điều kế tiếp cần ghi nhận  Việt Nam là quốc gia chiếm hữu lâu dài, một cách hoà bình, trước khi hoàn toàn không một quốc gia nào tranh cãi. Hoạt động  của Việt Nam với mật độ lâu, dầy và thường xuyên, nhứt là từ các năm 1803, 1821, 1836, 1837, 1838, 1845, 1846, 1856... Công tác không phải chỉ chớp nhoáng rồi về,mà hoạt động cấp nhà nước gồm:đo đạc thuỷ trình, vẽ bản đồ, cấm biển chủ quyền, cứu hộ hàng hải quốc tế. . Trung Quốc cũng có vài hành động tương tợ nhưng mãi đến 1937(sau Việt Nam khoản 100 năm).

2/-Trường Sa:

          Mãi đến thế kỷ 17, người ta nghĩ chỉ có một nhóm đảo mà thôi,đến năm 1788 mới xác định được có hai quần đảo, phía trên(bắc) là Hoàng Sa, và dưới (nam) là Trường Sa. Tên của cụm đảo  được giải thích vì trải dài nhiều trăm km, nên gọi là Trường Sa. (Spratley Islands). Quần đảo chiếm một diện tích khá rộng,nhưng phần nổi lên khỏi mặt nước chỉ khoản 11 km vuông mà thôi. Về vị trí, Trường Sa cách Vũng Tàu 305 hải lý (564km), cách Cam Ranh 250 hải lý(460 km) và  cách Phan Thiết 270 hải lý,(499km), trong khi đó cách đảo Hải Nam của Trung Cộng 1150 km.

II/-Tài liệu Việt Nam Thực Thi Chủ Quyền:

Từ nhiều thế kỷ qua, Việt Nam đã hành xử chủ quyền một cách chính thống, liên tục và hoàn toàn không một quốc gia nào khác đứng ra tranh cản. Đặc biệt Trung Hoa, với dã tâm và “thói quen” chinh phục cũng không bao giờ chứng tỏ “chủ quyền” đ/v hai quần đảo nầy. Lý do tại sao, chúng ta hãy tìm hiều  sau.

Tiếp theo, là phần trình bày về Việt Nam hành xử chủ quyền:

1/-Ngay từ thời vua Lê T. Tông(1460-1497)

Bộ Hồng Đức bản đồ đã được in ra, có ghi  rõ: “ . . giữa biển có bãi cát vàng, với khoản 400x200 dậm  nổi giữa biển và vào thế kỷ 17, chúa Nguyễn sai 18 thuyền ra thu nhặt các thứ của quí, cả những vàng bạc, tiền tệ do các tàu đi ngang bị chìm. Thuyền đi ra thuận gió chỉ khoản 1 ngày rưởi mà thôi”.




Bia chủ quyền do chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa

thực hiện tại quần đảo Trường Sa

         

         

          Trong thời nầy, người ta không thấy bóng dáng “một chú chệt” nào xuất hiện.Theo tài liệu nghiên cứu quốc tế thì “ngườì Trung Hoa có giỏi về nghề cướp cạn trên đất liền, và rất ít dùng tàu thuyền đi xa bờ. Các chú chệt chỉ mon men theo bờ biển, đôi lần vào sông Bặch Đằng (trên lảnh thổ Việt Nam) và đều bị tổ tiên ta đánh tan tành. Sau nầy để phụ họa cho ý đồ gian trá, họ đã ngụy tạo ra những chuyện “người Tàu viễn du đây đó”, nhưng đã bị quốc tế lật tẩy.

          2/- Trong bộ sách “Phũ Biên Tạp Lục” của ông Lê Quí Đôn(1726-1784), có ghi rõ về đảo Hoàng Sa như sau: “. . . Ngày xưa,chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, chọn người xã An Vĩnh sung vào. . . Hàng năm, vào tháng giêng, đi ròng rả 6 tháng ra đảo  thu hoạch đồi mồi, hải sản, só ốc về nộp cho thành Phú Xuân”.

          3/-Đến thế kỷ 18, ông Phan Huy Chú (17820-1840) có viết trong bộ “Hoàng Việt Địa Dư Chí”,in bản đồ nước VN dưới tên Đại Nam và quần đảo Trường Sa được ghi là  “Vạn Lý Trường  Sa”

          4/-Cuối thế kỷ thứ 19, ta có bộ “Đại Nam Nhất Thống Chí”, và bộ “Đại Nam Thực Lực Chánh Biên” và nhiều sách khác, có ghi rõ :“Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngải, Trường Sa thuộc Phan Thiết.Ngay từ thời vua Gia Long đã cử quan cai quản, dựng bia tại hai Q. Đ nầy, ngày nay vẫn còn dấu vết.

          ( Vào thời điểm đó, nếu có “tàu lạ” của chú Chệt lò mò ra đây,chắc họ đã dựng bia và về “hỏi tội” V.N, chớ không im lặng, nhứt là lúc nầy giữa VN và T.H “chẳng có mấy cái chữ vàng và mấy tốt” đâu.). Đặc biệt, dưới dây là văn bản nội các trình lên vua Bảo Đại (năm 1939), xin ban thưởng cho người có công lập đồn phòng thủ trên Hoàng Sa, và được vua Bảo Đại phê “chuẩn y”.

         

 


 

     5/-Trong thời Pháp thuộc, nước Pháp đã thay mặt Việt Nam và đã trực tiếp thực thi nhiều động thái chứng tỏ chủ quyền, được liệt kê như sau:

          -Năm 1920, sở Thương Chánh ra đặt trụ sở vùng biển Hoàng Trường Sa để ngăn chặn buôn lậu và bắt bọn hải tặc.

          -Ngày 15/6/1932 toàn quyền Pháp đã ký Nghị Định  thành lập “đại lý hành chánh”(tương tự như đặc phái viên HC thời quốc gia VN).Cũng trong giai đoạn nầy, phía Nam triều (vua Bảo Đại) đã ban hành dụ số 10,qui định Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.

          -Củng trong thời Pháp thuộc, trong những năm 1927,1930,1933 có ba chiếc tàu ra đo đạc,khảo sát cấm cờ chủ quyền, và toàn quyền Đông Dương ban hành N. Đ đặt Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

          - Năm 1935, Nhà Khí Tượng Đông Dương đã thiết lập một đài khí tượng để quan sát thời tiết vùng duyên hải Việt Nam

          (Cũng nên nhắc lại, những công việc trên là thể hiện chủ quyền theo luật pháp quốc tế về biển và hải đảo) 

6/- Đến thời kỳ Việt Nam Cộng Hoà:

Quốc gia V.N đã minh thị xác định chủ quyền theo luật pháp quốc tế như: chiếm hữu hơp pháp và lâu dài một cách hoà bình, không phải đánh chiếm của từ một quốc gia làm chủ trước đó (như sau nầy 1974 Trung Cộng đánh chiếm từ tay VNCH). Thực sự khai thác và  có đặt cơ quan hành  chánh cụ thể như : vào ngày 22/10/1956 Tổng Thống VNCH ban hành  sắc lệnh số 143NV, theo đây  Bà Rịa,Vũng Tàu và Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy.

          Ngày 13/7/1971, TT/VNCH ban hành sắc lệnh số 174, qui định trước đó Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay thuộc tỉnh Quảng Nam, toàn bộ Hoàng Sa thuộc xã Định Hải, Hoà Vang và có một phái viên HC. Đồng thời có cử một trung đội đồn trú tại nơi nầy,

Trên đây chỉ là ngắn gọn,nhưng rất căn bản  vài tài liệu  của Việt Nam, liên quan đến Hoàng Trường Sa. Tiếp theo à một số tài liệu quốc tế liên quan đến Hoàng và Trường Sa, với kết luận rõ nét, khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo nầy.

 

CHƯƠNG II

Những văn bản quốc tế

đề cập đến Hoàng và Trường Sa

                     Đây là những văn bản quốc tế,mà các quốc gia có liên quan đã ký kết.Đặc biệt trong đây có Trung Hoa ,Pháp và các quốc gia trong phe Đồng Minh ,cùng cả Nhựt Bản(phe trục) sau khi thế chiến thứ hai kết thúc.Trở lại, hai quần đảo Hoàng và Trường Sa của Việt Nam, cho mãi đến 1945 hầu như không có những tranh chấp. Đó là nhìn từ bên ngoài, thật sự ngấm ngầm bên trong, Trung Quốc lúc nào cũng nuôi trong đầu mộng bá quyền gian manh,ngang ngược.Họ ví như con hổ đói, chực chờ khi đủ sức và cơ hội sẽ vươn mống vuốt vồ lấy con mồi Việt Nam vốn nhỏ bé và ốm yếu hơn họ. Cơ hội đã đến, thời cơ cũng đã đến và chúng đã ra tay, cụ thể từ 1967, 1974 và sau nầy( Việt Nam Cộng Hoà trước 1975, đang phải dùng toàn lực chống lại mưu đồ “giải phóng” của miền Bắc.Và miền Bắc là  “em út” của Trung Cộng, được họ chu cấp viện trợ mọi thứ và dĩ nhiên họ là ông chủ của Bắc Việt. Đàn em , dĩ nhiên phải vâng lời hay ít ra ngó lơ để ông chủ dở trò áp bức ). Về sau, từ khi Việt Nam doúi quyền cai trị củaCộng Sản, thì Trung Cộng ngang nhiên đánh và chiếm hai đảo nầy như chỗ không người. Trong khi đó, cả thế giới văn minh luôn mưu tìm những luât pháp quốc tế khả dĩ ngăn chăn hành động ngang ngược, côn đồ của bọn bá quyền. Riêng trong lãnh vực biển và hải đảo, năm 1982 một công ước đã ra đời, và cũng chính vì công ước nầy, càng khiến Trung Cộng lồng lộn, ngang ngược hơn vì về pháp lý, và địa dư, đã minh chứng sự thua kém và đuối lý của họ.

                     Và cũng cần nêu ra đây, công ước là một đúc kết tỉ mỉ, hợp lý những lẽ phải của xã hội văn minh.Để có được những nhận định vô tư, căn bản, người ta cần sưu tập những nét căn bản trong hàng thế kỷ qua, gọi chung là “Các hiệp ước quốc tế” (về Việt Nam ) tuần tự như sau đây:

I/- Các hiệp ước Việt-Pháp-Hoa

          Vào năm 1862, Pháp chiếm VN làm thuộc địa, và vào năm 1884 bằng hiệp ước Patenôtre, Pháp là chánh phủ bảo hộ và đại diện VN về mặt ngoại giao, cam kết bảo vệ an ninh và chủ quyền của VN.

Tiếp theo, hiệp ước Thiên Tân 1885 ra đời, mà theo đây Trung Hoa từ bỏ chủ quyền đối với VN. Đến năm 1887, Pháp ký với Trung Hoa hiệp ước Bắc Kinh, nội dung phân ranh vịnh Bắc Phần, theo đây VN được 63% và Trung Hoa được 37 %. Điều cần nói, có thể trong giai đoạn nầy,Trung Hoa cũng là quốc gia bị thua kém, yếu thế  phải chấp nhận thua thiệt nếu có.

          Sau đây là một số tư liệu cuả Pháp còn lưu trong văn khố, đã ghi rõ chủ quyền củaViệt Nam, và đặc biệt chính Trung Hoa công khai nhìn nhận. Riêng về phía Việt Nam, đã chứng tỏ công khai chủ quyền,cũng như trong một tài liệu, vua Bảo Đại đã có châu phê khen thưởng người có công trong việc  lập đồn trên Hoàng Sa(đã nêu phần trên)

II/- Tuyên cáo Cairo

Vào ngày 27/11/1943 phe Đồng Minh ,mà đại diện Hoa Kỳ  là Tổng Thống Rosevelt, Thủ Tướng Anh Churchill và Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch ký tuyên cáo ,tước bỏ quyền của Nhựt Bản(phe trục)trên các lảnh thổ và hải đảo ở Thái Bình Dương, giao hoàn Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ cho Trung Hoa. Họ Tưởng đã không đòi giao Hoàng và Trưòng Sa cho Trung Hoa, vì hơn ai hết ông nầy biết rõ hai quần đảo là của Việt Nam.

Cần lưu ý là trong giai đọan nầy, Trung Hoa dù gì cũng ngang hàng với Hoa Kỳ,Anh quốc. . (cùng là phe thắng trận) nếu đòi được thì họ Tưởng đã lên tiếng. Xin đừng quên, “tàu nào cũng là tàu cả”, họ chẳng bao giờ thay máu tham tàn ngang ngược, bá quyền trong con người họ. (Người Việt Nam đừng bao giờ quên điều nầy).

III/- Tuyên ngôn Postdam 1945

          Đệ nhị thế chiến kêt thúc, theo tuyên ngôn Postdam, phe thắng trận chia VN thành 2 khu vực để giải giới:Trung Hoa Quốc Gia giải giới quân Nhựt tại vùng bắc vĩ tuyến 16(Đà Nẳng), trong đó có quần đảo Hoàng Sa.Và quân Anh giải giới quân Nhựt từ vĩ tuyến 16 vào Nam, có quần đảo Trường Sa.

          Nên nhớ rằng “giải giới không phải là tiếp thu.”, Anh quốc không tiếp thu, không có chủ quyền tại Trường Sa, thì Trung Hoa cũng không có quyền tiếp thu Hoàng Sa (nhưng Trung Hoa Dân Quốc đã nhân cơ hội chiếm đảo Ba Bình ,và hiện đang cố giữ, có đặt cơ sở)

IV/-Hiệp định Élysée

          Theo hiệp định nầy, Anh Quốc trả độc lập cho Ấn Độ và Đại Hồi (Hồi Quốc ngày nay). Đây là giai đoạn sau thế chiến,các quốc gia bị chiếm làm thuộc địa phải được trả lại độc lập,mà không cần phải giải phóng, tốn hao xương máu.Riêng trường hợp Việt Nam, năm 1948, Pháp và Việt Nam ra thông cáo chung vịnh Hạ Long, thừa nhận chủ quyền VN.Vào tháng 3/1949 Tổng Thống Pháp ký hiệp định Élysée trao trả độc lập cho “quốc gia Việt Nam”, mà ngài Bảo Đại là Quốc Trưởng, đương nhiên thụ đắc quyền chánh thống. Và vào tháng 4/19, Nam Kỳ tự trị, giải thể sát nhập vào lảnh thổ “Quốc Gia Việt Nam” độc lập và thống nhứt. Từ đây, Việt Nam trên căn bản là một quốc gia, từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau, kể cả hải phận với hai quần đảo Hoàng và Trường Sa. Và cũng nhân đây, phải xác định cho rõ một lần nữa, sau đệ nhị thế chiến, các thuộc địa đã tuần tự và đương nhiên được trả độc lập, không cần phải “giải phóng” gì cả

          ( Đây là giai đoạn tương đối ngắn ngủi, và trên thực tế, Việt Nam chưa phải hoàn toàn thanh bình thạnh trị, vì bên cạnh chánh phủ do Quốc Trưởng Bảo Đại cầm đầu, một số nơi do Việt Minh Cộng Sản chiếm giữ, dùng chiêu bài “giải phóng”, theo lệnh Cộng sản quốc tế , gây nên cuộc nội chiến kéo dài 20 năm, từ 1955 đến 1975). Tài liệu không đi vào chi tiết vì không thuộc nội dung chính trong  tài liệu nầy.

V/- Hiệp ước hoà bình San Francisco 1951

Có thể nói, đây là một sự kiện thật quan trọng.

          Vào mùa Xuân năm 1945, các quốc gia Đồng Minh họp hội nghị thành lập Liên Hiệp Quốc . Năm 1951, 51 quốc gia hội viên sáng lập họp tại San Francisco (California,Hoa Kỳ), ký hiệp ước hoà bình ngày 8/9/1951. Nộị dung và diễn biến của hội nghị nầy thật quan trọng, mà một phần liên quan đến Việt Nam như sau:

          -Nhựt Bản khước từ chủ quyền tại các đảo Hoàng và Trường Sa (mà họ áp đặt ngày 30-3-1939 khi họ đang thắng thế tại Á Đông), và giao hoàn cho Việt Nam.

          Đây là một quyết định hợp lý, vì khi Nhựt tuyên bố chủ quyền tại 2 đảo nầy, Trung Hoa đã không lên tiếng,chỉ có chánh phủ Pháp(đại diện cho VN) phản đối. Vì vậy khi Nhựt từ bỏ chủ quyền, các quốc gia dự hội đã minh thị bác bỏ chủ quyền của Trung Hoa và mặc nhiên chấp nhận chủ quyền cho VN.

          Trong hội nghị nầy, một sự kiện  vô cùng hệ trọng, đáng lưu ý là trước đó ngày 5/9/1951 ,ngoại trưởng Liên Sô (Cộng Sản), đệ trình một tu chánh án yêu cầu trao Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ Đông Sa(Pratas Islands), Trung Sa(Macclesfield bank),Tây Sa(Hoàng Sa) và Nam Sa(Trường Sa) cho Trung Hoa(Cộng Sản),tuy nhiên tu chánh án nầy đã bị bác bỏ với số phiếu 46/3(chỉ có 3 phiếu thuận theo tu chánh án của Liên Sô). (www.diendantheky.net)

          -Ngày 7/9/1954, ,trong hội nghị tại San Fransisco,Thủ Tướng của Quốc Gia Việt Nam lên diễn đàn công bố chủ quyền của VN tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà không gặp phải bất cứ sự chống đối nào, kể cả Nga Sô (Đây cũng là một sự kiện người Việt Nam phải ghi nhớ. Quốc gia Việt Nam là một thực thể được quốc tế công nhận,nếu không thì Thủ Tướng Trần văn Hữu không thể hiện diện, dù là với tư cách quan sát viên. Và lúc nầy, rõ ràng Cộng Sản V.N không có mặt)

 

VI/Công ước quốc tế về luật biển

          Đây là một “văn bản pháp lý quốc tế có ý nghĩa nhứt của thế kỷ nầy”(lời ông Tổng Thư Ký /Liên Hiệp Quốc) được ban hành năm 1982. Luật nầy bao gồm 17 phần, 320 điều khoản và 9 phụ lục với 100 điều khoản, 4 nghi quyết kèm theo. Nguyên văn tiếng Anh  là “United Nations Convention on the Law of the Sea”.Công ước được  ký kết ngày 10/12/1982, có hiệu lực ngày 16/11/1994. với 107 quốc gia ký và đến nay có 162 quốc gia phê chuẩn(đồng thuận). Điều cần nhấn mạnh là nội dung công ước, đa phần là đúc kết những điều luật hợp lý ,văn minh của con người. Vì quá dài, chỉ tóm lược trình bày những điều thiết yếu mà thôi, các điều luật khác chỉ ghi ra không đi vào chi tiết.

          Nội dung của công ước nầy,như đã nêu gồm 17 phần. (Từ ngữ “phần” trong đây chỉ gói gọn trong đoạn VI mà thôi). Nội dung tóm tắt như sau:

                     -Phần I/- đề cập về các thuật ngữ, phạm vi áp dụng.

-Phần II/ (phần I và II thuộc về chuyên môn, không cần thiết nên  không ghi ra và vì quá dài), chỉ  đề cập  về lảnh hải và vùng tiêp cận

“-qui định ranh giới 12 hải lý, các mỏm đá(recifs), đường cơ sở thẳng, bãi cạn lúc nổi lúc                  chìm(điều 13).Điều qui định đáng lưu ý là “bãi cạn lúc nổi lúc chìm hoàn toàn ở cách lục địa hoặc một khoản cách vượt quá chiều rộng lảnh hải(12 hải lý), thì không có lãnh hải riêng( như vậy, dù Trung Cộng có bồi đắp các đảo nhân tạo, thì hoàn toàn không được công nhận , vì các   đảo bồi đắp nầy cách xa bờ biển Trung Cộng nhiều trăm hải lý.)

-Phần III/- Qui định về eo biển dùng cho lảnh hải, quyền tự do hàng hải, các quốc gia được quyền đi lại,với những qui định căn bản : “ đi qua không gây hại trong các eo biển thì sẽ không bị đình chỉ cản ngăn”

-Phần IV/- Nói về các quốc gia quần đảo(Cụ thể như quốc gia Nhựt Bản, Phi Luật Tân. . v..v…)

(Cần lưu ý, vì tài liệu quá dài, những phần không cần thiết chủ đề chỉ ngắn gọn mà thôi)

         

-Phần V/- Vùng đặc quyền kinh tế

-Căn bản vùng đặc quyền kinh tế là 200 hải lý. Vùng Đ.Q.K.T (đặc quyền kinh tế)là một “ quyền đương nhiên”, nói rõ hơn, đây là đương nhiên  có được,mà không cần chiếm hữu, và không một quốc gia trong cộng đồng thế giới có quyền phủ nhận hay xâm phạm.Quốc gia ven biển có quyền khai thác tài nguyên dầu khí, hải sản, tiến hành xây dựng khai thác các đảo nhân tạo,nhưng không gây trở ngại hành hải tự do của cá quốc gia khác(như trường hợp Bãi Tư Chính cuả Việt Nam,mà tư lâu nay Trung Cộng ngang ngưọc muốn xí phần,tạo không thành có. . ). Tuy nhiên các đảo nhân tạo không là cơ sở để qui định ranh giới lảnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa.

                     -Phần VI/- Thềm lục địa

Cũng là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Quyền hạn các quốc gia ven biển, tự do hàng hải, đặt giây cáp của các quốc gia.

                     -Phần VII/-  Biển cả

-Phần biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế, tự do hàng hải các nước,hàng không, đánh bắt cá(các quốc gia khác cũng có quyền đánh bắt  ngoài phạm vi “đặc quyền kinh tế” của các quốc gia ven biển. . . )

-Nêu rõ những nghiã vụ giúp đỡ cho tàu thuyền gặp nạn, trấn áp cướp biển, khám xét, truy đuổi (xin mở ngoặc nói thêm, Trung Cộng đã tàn nhẫn, đã đánh cướp tàu thuyền của VN, mà còn ngăn cản không cho tàu thuyền VN cứu giúp ngưòi VN).

                     -Phần VIII/- Chế độ các đảo

Định nghiã đảo là vùng đất có nước bao quanh và luôn nổi lên .Các hòn đảo không thích hợp. .           không có đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (Thời gian qua, Trung Cộng cố bồi đắp các đá ngầm nửa nổi nửa chìm, để chúng tỏ đó là các đảo)

                     -Phần IX

 


 

Một trang trong cuốn “Địa dư đồ khảo” của Trung Hoa,

đời vua Quang Tự (1875-1908).Trên trang nầy, bên

phía phải có hình đảo Quỳnh Châu (Hải Nam)

                                 là điểm cuối của Trung Hoa

 

-Phần XII/- Bảo vệ và gìn giữ mội trường ( không ghi chi tiết dù tóm lược)

                 -Phần XIII/- Việc nghiên cứu khoa học biển( không ghi chi tiết)

                 -Phần XIV/- Phát triển và chuyển giao kỷ thuật, (không ghi chi tiết )

                          

- Phần XV:- Giải quyết các tranh chấp.

Hai nguyên tắc căn bản là:

-các quốc gia ven biển có quyền đánh cá và khai thác dầu khí trong phạm vi 200 hải lý (là vùng đặc quyền kinh tế)

- quyền tự do hàng hải và tự do khai thác hải sản tại biển sâu.Cũng có những những qui định căn bản như:

                     -Biển lảnh thổ(territorial sea) rộng 12 hải lý

-vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý để đánh cá ,cũng trùng điệp với thềm lục địa 200 hảlý  để khai thác dầu khí.

- các quần đảo Phi Luật Tân hay Nhựt Bản có quyền hưởng qui chế vừa nêu.Các tiểu đảo không có dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế (như Hoàng Sa và Trường Sa) không được hưởng qui chế  nầy.

- Toà án quốc tế La Hague và công ước LHQ cũng qui định biển Nam Hải(Southern Sea)      là vùng biển ven bờ chạy từ “eo biển Đài Loan tới Quảng Đông’. Biển Nam Hoa (South China Sea) thuộc chủ quyền của 5 quốc gia là: Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân , Đài Loan.

Quyền thụ đắc:

Theo nguyên tắc, đã được qui định trong công ước nêu trên, gồm có 3 trường hợp, tóm tắt như sau:

-Quyền thụ đắc theo nguyên tắc “quyền phát hiện” tức ưu tiên phát hiện và chiếm hữu mà trước đó không quốc gia nào có lực lượng chánh quyền  đồn trú

-Quyền thụ đắc theo nguyên tác: “thực sự chiếm hữu”, tức có làm chủ và khai thác

-Quyền thụ đắc theo nguyên tắc: “kế cận địa lý”

(Tất cả những PHẦN. . . thuộc trong  công ước về luật biển)

 

Trên đây là những qui định căn bản được diển dịch đã ghi tỉ mỉ, chi tiết  và những ràng buộc cụ thể hơn. Và theo như trên đây, Việt Nam hoàn toàn đáp ứng đầy đủ nguyên tắc thụ đắc hai quần đảo Hoàng và Trường Sa, nhưng mãi sau nầy, Trung Cộng tự tiện (không theo bất cứ nguyên tắc nào (như đã ghi trên) vẽ ra cái lưỡi bò. Ta hãy ngắn gọn trình bày như sau( hết phần một)



Hoài Việt


 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual