ĐÔI ĐIỀU VỀ HOÀNG SA (Phần2)

      

 Hoài Việt

CHƯƠNG III/-

Đường lưỡi bò

 

I/- Tại sao có đường lưỡi bò:

Câu trả lời thật đơn giản. Tại đây, cũng cần nêu rõ,mọi chuyện khởi đầu cũng do cái tên “tàu khựa” họ Tưởng.Khi bị thua trong cuộc kháng chiến chống ... nhau với Tàu Mao, họ Tưởng gom tàn quân và mọi thứ có thể mang theo chạy sang Đài Loan,nhưng hắn ta vẫn sợ họ Mao truy quét, nên đã lém lĩnh vẽ ngoằn nghoèo cái đường lưõi bò, với hàm ý là muốn Mao nên lo tìm cách lấn xuống biển Đông, “liếm” biển Đông, đừng liếm qua eo biển Đài Loan.  Bọn Tàu thật khốn nạn, và họ Mao lúc chưa đủ sức cứ ghi nhận để đó chờ thời. Chuyện đại sự không phải đùa cợt, nhưng rõ ràng cái đường nầy không xuất hiện chánh thức trong bất cứ bản đồ nào của Trung Quốc hay thế giới. Trung Cộng đưa ra những lý lẽ vu vơ, những chứng tích gàn bướng vô lý với ngoa ngôn hầu nhận vơ hai quần đảo Hoàng và Trường Sa, gọi là lảnh thổ của mình. Năm 1982, Trung Hoa đã ký vào Luật Biển (và VN cùng Phi Luật Tân  cũng ký). Đã ký thì phải theo, nhưng rồi Tàu Cộng lại tự thấy mình đã hố. Không phải với đầu óc gian manh, họ không thấy trước sự đuối lý nầy, nhưng có lẽ họ đã quá ỷ lại vào “văn thư Phạm văn Đồng 1958”, hay quá ỷ lại là đàn em Việt Nam không dám “hó hé” gì, hay là họ ỷ vào sức mạnh kinh tế quân sự.  Càng về sau, họ càng thấy mình đuối lý,nên đã tự động đưa ra  thuyết “Biển Lịch Sử”, với quái thai “Đường Lưỡi Bò”.

 


Đường lưỡi bò do Trung Cộng tự vẽ.

II/-Đường lưỡi bò là gì:

Đường nầy-còn gọi là đường chín đoạn- vì nó giống như cái lưỡi bò liếm xuống gần như toàn bộ biển Đông, do Trung Cộng tự động đưa ra để chứng tỏ chủ quyền không tranh cải của họ.(?). Đây là đường tưởng tượng mà trong sử sách của thế giới chưa bao giờ được nêu lên. Riêng đối với Trung Hoa, cái lưỡi nầy (do họ Tưởng tự vẽ) hình thành trong đầu tên Mao Trạch Đông từ lâu, và xuất hiện trong tài liệu của họ vào năm 1954. Trong cuốn “Lược Sử Tân Trung Hoa”, họ Mao đã ngang ngược tuyên bố: “tất cả các lảnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa ,đã bị phe đế quốc Tây phương và Nhựt chiếm đoạt sẽ phải được giao hoàn cho Trung Hoa. Những lãnh thổ nầy sẽ vĩnh viễn thuộc về Trung Hoa do sự chinh phục và khai hoá của văn minh chống man di”. Thật vô cùng ngang ngược và ngạo mạn, Trung Hoa luôn tự nhận là văn minh, và các dân tộc xung quanh là man di cả. ( Tay họ Mao ngụ ý nói, các dân tộc xung quanh họ là man di, Trung Hoa có công khai sáng, giáo dục, nên họ có quyền  làm chủ). Xét về khía cạnh nào đó,lời tuyên bố của Mao cũng có lý lẽ, dù chỉ rất ít.Cái gì mà khi Trung Hoa còn yếu bị chiếm cứ (như Hồng Kông, Mãn Châu) thi trả lại,nhưng Hoàng Sa và Trường Sa đâu phải của họ, cũng như Tây Tạng vậy. Nay thì họ ỷ vào sức mạnh mà ngang ngược chiếm lấy, cũng như chiếm lấy Tây Tạng. Xin hãy nhớ lấy đừng quên.

Thật buồn cười vì nó hoàn toàn không có cơ sở pháp lý,lịch sử và cả thực tiển. Cụ thể như sau:

            1/-Đây là một đòi hỏi hoàn toàn vô lý, “nó” chiếm đến 80% biển Đông. Tính từ bờ biển Trung Hoa đến nơi Trường Sa, cách khoản ít nhứt trên 1000 km, khi “đặc quyền kinh tế “chỉ là 200 hải lý(374 km).Đây là qui định nêu rõ trong “Luật Biển 1982” mà Trung Hoa đã tham gia năm 1996.

            2/- Vào năm 1958, Trung Hoa đã chánh thức công bố lảnh hải của họ , cũng như 1992, họ cũng công bố luật lảnh hải và tiếp giáp năm 1992 cùng đường cơ sở năm 1996, luật đặc quyền và thềm lục địa năm 1998. Tất cả những văn bản của họ vừa nêu hoàn toàn không đề cập “có đường lưỡi bò, thì vào năm 2009, họ lại “đẻ” ra đường lưõi bò.

            3/- Yêu sách của Trung Cộng đã xâm phạm đến đặc quyền kinh tế của các quốc gia như: Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Bru nây,  cũng là những thành viên của cộng ước 1982.

            -4/- Ngay từ căn bản, Trung Quốc cũng đã lúng túng, bất nhứt trong thời điểm đưa ra “lưõi bò” nầy. Họ tuyên bố lung tung, lúc thì nói là lưỡi bò có từ 1946, 1948, và có lần họ nói có từ 1914. Về hình vẽ các khúc (đoạn), có lúc 11 đoạn, lúc 9 đoạn và gần đây nhứt là 10 đoạn (2013). Họ cũng chưa bao giờ xác định được tọa độ.Điều nầy chứng tỏ họ “nói càng”, chưa chủ động thời giờ và cũng không biết lấy cơ sở nào, chỉ là cái  “cơ sở gàng bướng”côn đồ của họ. Chuyện đại sự, thế giới mà họ làm như trò khỉ, thì chỉ có Trung Quốc thời Cộng Sản. Ôi, công lý trên đầu súng và người ta có thể nghĩ, cái tổ chức Liên Hiệp Quốc nên cải tổ càng sớm càng tốt.

            5/- Họ cũng chưa bao giờ (và sẽ không bao giờ) minh chứng được các chánh quyền  mà họ thực thi trong thời gian nào cả .Ngoài ra, cũng xin ghi ra đây chi tiết, con đường lưõi bò của T.Q đã “đụng” sát :

                        -đảo Jame Shoal (Tăng Mẫu) của Mã Lai

                        -đảo Natune của Indo

                        -đảo Luzon của Phi

                        -và có đoạn, nó liếm chỉ cách bờ biển VN khoản 50-100 km.(và vùng đặc quyền kinh tế-lảnh hải  của Việt Nam  đương nhiên  phải là 200 hải lý hay 374 km)

Tóm lại, Trung Cộng đưa ra “biển lịch sử-đường lưỡi bò” đã bị dư luận cả thế giới chê trách và phủ nhận. Cụ thể, các luật gia tại Hải Dương Học Đông Tây (Hawaii) đã phát biểu” Không có nguyên tắc hay điều khoản nào trong Công Pháp Quốc Tế cho phép Bắc Kinh đòi như vậy.”Và chính Trung Cộng cũng biết rõ nên từ thập niên 1990, khi công ước Luật Biển ban hành, họ không bao giờ dám chấp nhận để toà án Trọng Tài Quốc Tế thụ lý những vụ tranh chấp về chủ quyền ở hai quần đảo. . . Thất bại trong vụ “lưỡi bò”, họ lại đưa ra “thụ đắc chủ quyền”do khám phá và chiếm cứ:

            III/Thuyết thụ đắc chủ quyền:

Theo Bắc Kinh,từ trên 2000 năm trước, đời Hán Vũ Đế, có 100 ngàn quân Tàu tuần hành biển Nam Hải, và khám phá ra Hoàng và Trường Sa. Cũng như năm thế kỷ 15, hải quân của họ đi tuần thám biển Đông đã khám phá và thụ đắc các đảo nầy.(Thật buồn cười, Hán Vũ Đế tự nhiên dẩn 100 ngàn quân khơi khơi ra biển Đông làm “cái đ. . . gì chớ)

            Cả 2 sự kiện nầy hoàn toàn không có thực. Sử sách của họ không bao giờ đề cập 2 sự kiện trên. Lịch sử chỉ ghi 100 ngàn quân của Tào Tháo, đi xâm chiếm Đông Ngô và bị Chu Du đánh tan trong trận Xích Bích năm 207(trong đất liền). Và dưới thời Minh Thành Tổ, trong kế hoạch xâm lăng Việt Nam, các đội hải quân đã bị Bình Định Vương Lê Lợi (của Việt Nam) đánh tan cũng trong vùng sông . . Làm gì có chuyện đem cả trăm ngàn quân ra ngoài khơi thời bấy giờ.Và ra khơi đánh với ai?.

            IV/-Hơn thế nữa, khám phá không nhứt thiết là chiếm hữu(có quyền thụ đắc)

 Như trong các thế kỷ trước, các nhà thám hiểm quốc tế như Vasco de Gama khám phá ra mủi Hão Vọng tại Phi Châu và các đảo hoang tại Ấn Độ Dương, Magellan(người Bồ Đào Nha) khám phá ra Phi Luật Tân và đảo Guam, thì nay Bồ Đào Nha có quyền đòi làm chủ các vùng đất nầy sao??? Và đặc biệt, ông Christophe Colum (người Ý) khám phá ra Mỹ Châu, vậy nay phải giao trả đất Hoa Kỳ lại cho Ý Đại Lợi ???.

            Họ cũng muốn thụ đắc vì đã chiếm cứ. Điều nầy càng hoàn toàn vô lý, vì họ chưa bao giờ chiếm cứ đảo nào cả,nếu có chăng thì cũng mới sau nầy, khoản 1945, trong khi Việt Nam hàng nhiều thế kỷ.. . Và tiếp theo, khi đề cập về lành hải, những điều quan tọng cần nêu, mà trong đây, là thềm lục địa.

V/-Qui chế về thềm lục địa:

Đây là một qui chế vô cùng quan trọng và hợp lý.Như đã nêu, Luật Biển 1982 không phải đương nhiên hình thành.Đây là kết tinh những qui chế hợp lý, đúc kết từ những “luật biển” của quốc tế nhiều chục năm qua, đặc biệt từ khi quốc tế biết chấp nhận theo văn minh, lẽ phải, sau đệ nhị thế chiến 1945. Và chính qui chế nầy đã như một cái tát làm vở mặt T.Q với sự ngang ngược, điêu ngoa của họ. Chúng ta không phải nặng lời, nhưng chính vì họ đã không còn chút lương tri, biết suy nghĩ. Chính điều khoản nầy đã hoàn toàn đánh bại hành vi ngang ngược của T.Q

Theo điều 76 của Luật Biển, các quốc gia duyên hải (như Trung Hoa, Việt Nam, Phi Luật Tân,Mã Lai, Thái Lan. .) .hoàn toàn và đương nhiên được hưởng  qui chế “thềm lục địa 200 hải lý(370 km)-mà cũng là vùng “đặc quyền kinh tế”. Đây là chủ quyền chuyên biệt “suvereign exclusive right” Diễn dịch cụ thể hơn, đây là quyền đương nhiên có được (thụ đắc) mà không cần phải chiếm hữu,khai phá hay tuyên bố minh thị(occupation, exploration or assertion of right). Mọi sự chiếm cứ dù có võ trang hay không đều bất hợp pháp, vô giá trị và vô hiệu lực (điều 76 và 81).Luận bàn về điều khoản nầy, xin được phân tích cụ thể hơn vá áp dụng vào trường hợp hai quần đảo của Việt Nam thì đã quá rõ, như sau:

1/-Về phương diện điạ lý:

            a/Tai quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ cách bờ biển VN (tỉnh Quảng Ngải) 135 hải lý, và đảo Hoàng Sa nói chung chỉ cách bờ biển Việt Nam 160 hải lý. Như vậy, Hoàng Sa hoàn toàn nằm trong phạm vi 200 hải lý, là thềm lục địa của Việt Nam (Trong khi đó, đảo Hoàng Sa cách bờ biển Trung Hoa 270 hải lý, hoàn toàn không phải là thềm lục địa của Trung Hoa)

            b/Quần đảo Trường Sa cách Cam Ranh 472 km (250 hl), Phan Thiết 499 km(270 hl) và Vũng Tàu 564 km.(350 hl). Trong khi đó, từ bờ biển Trung Hoa(không phải từ bờ biển đảo Hải Nam), cách Trường Sa từ 550 đến 800 hl. Như vậy, hoàn toàn không có gì gọi là “thềm lục địa” đối với Trung Hoa cả



Nhà Việt Nam trên Trường Sa

2/- Về phương diện địa chất:

Đây là một yếu tố, một chứng lý vô cùng quan trọng, do thiên nhiên, con người không thể “lắp biển vá trời” được. ( chỉ trừ Trung Cộng bôm cát bồi đắp giả tạo mà quốc tế đều thấy rõ).Vấn đề nầy có thể  trình bày cụ thể như sau:

a/- Đối với Hoàng Sa, các nhà khoa học quốc tế đã vô tư xác định như sau: “về mặt địa chất, các đảo Hoàng Sa là của Việt Nam”. Thêm nữa, căn cứ vào độ sâu, người ta càng nhận rõ ràng hơn .Độ sâu nhứt tại Hoàng Sa (từ bờ biển VN ra tới  Hoàng Sa) chỉ khoản 900 mét, nếu nước biển rút xuống, các đảo Hoàng Sa sẽ là một dãy hành lang thoải thoải, từ dảy Trường Sơn(trong đất liền) qua cù lao Ré, đến đảo Tri Tôn (phúc trình của tiến sĩ Krempt về Hoàng Sa 1925-1927, hiện lưu tại văn khố Trường Viễn Đông Bác Cổ -Paris-Pháp quốc). Và vì đáy biển của Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên với lục địa VN, sẽ là căn bản, là cơ sở để được Ủy Ban Về Luật Biển (của Liên Hiệp Quốc) cho mở rộng thành qui chế “thềm lục điạ mở rộng” đến 350 hải lý.( Trong khi đó, từ Hoàng Sa đến bờ biển Trung Hoa, có một rảnh sâu đến 2300 mét, Trung Hoa hoàn toàn không có cơ sở về thềm lục điạ, và “thềm lục địa mở rộng” thì càng vô lý)

b/-Tại Trường Sa cũng thế, tại bãi Tư Chánh , nơi khai thác dầu khí, độ sâu chỉ trung bình 400 mét, cũng như tại Trường Sa độ sâu chỉ vào khoản 200 mét mà thôi.. Rõ ràng, về mặt điạ chất, Trường Sa cũng là thềm lục địa nối tiếp (theo quan điểm của Luật sư Covington, trong bản tường trình mà Việt Nam có trong tay). Trong khi đó, từ Trường Sa về đến Trung Hoa, có một rảnh sâu đến 4550 mét. Có lẽ cũng vì thấy mình đuối lý, nên trong bản tường trình của Bắc Kinh gởi choỦy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa _của LHQ, năm 11-5-2009,họ đã “né”, chỉ đề cập “hải phận” (hay biển lịch sử,tức đường lưỡi bò)(Theo luật biển, “biển lịch sử” là nội hải,tức từ phạm vi 12 hải lý trở vào phiá bên trong)

c/-Về khí hậu và sinh thực học: tại Hoàng Sa và Trường Sa có các đảo san hô, cũng như cây cỏ và sinh vật tiêu biểu cho vùng nhiệt đới Việt Nam, hoàn toàn không không thấy có ở Trung Hoa là vùng ôn đới.

d/- Tại thềm lục địa Việt Nam, các vùng có dầu khí đều nằm ở vịnh Bắc phần và Nam phần(phía đông nam Cà Mau). Đây là lớp thủy tra thạch, tích tụ các chất hữu cơ do phù sa sông Hồng và sông Củu Long đổ ra biển hàng triệu năm . Hoàn toàn không có con sông nào của Trung Hoa trong lục địa hay từ đảo Hải Nam chảy ra biển Đông.

VI/Công hàm của Thủ Tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

            Đây là một văn bản công (công hàm hay công thư) của ông Phạm văn Đồng,Thủ Tướng nước VNDCCH(tức Cộng Sản Bắc Việt, nắm quyền cai trị phần đất Việt Nam từ vĩ tuyến 17 về phiá bắc). Từ nhiều năm, văn bản nầy đã gây tranh cải, từ nhiều phía, và đặc biệt là một trong những “chứng lý” mà Trung Cộng nêu lên với mục đích chứng minh cho quốc tế biết “Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng”. Công luận thế giới, và dĩ nhiên hai phía Việt Nam, Trung Cộng lời qua tiếng lại không ít. Người ta đã cố  tìm hiểu phân tích, và trong tài liệu hạn chế, có thể nêu lên những ý kiến,kết luận từ các phía.(Riêng cá nhân chúng tôi, nhận xét rõ ràng Việt Nam hầu như hoàn toàn hữu lý.Không phải vì  là người Việt Nam, mà vì Việt Nam có những chứng lý cụ thể, trong khi phía Trung Cộng chỉ lợi dụng thế mạnh, nhận vơ nhận càng, mà không đưa ra được những sự kiện, chứng lý  đúng theo luật pháp quốc tế,nhứt là Công Ước về Luật Biển 1982).

            Sau đây là phần  trình bày  vài khía cạnh liên quan”công hàm”, trước tiên là:

            1/- Nguyên văn công hàm:

            Theo lý giải của Trung Cộng, ngày 4/9/1958, Thủ Tướng của họ đã công khai tuyên bố quyết định “mở rộng hải phận 12 hải lý kể từ đất liền ra các đảo ngoài khơi, bao gồm các quần đảo Tây Sa và Nam Sa(tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam)... Tiếp theo, ngày 14/9/1958, Thủ Tướng nước VNDCCH là ông Phạm văn Đồng gởi công hàm đến Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:

            Thưa đồng chí tổng lý.

            Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí tổng lý rõ:Chánh phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/ 2958 của chánh phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

            Chính phủ nước Việt Nam DCCH tôn trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gởi đồng chí tổng lý lời chào rất trân trọng”. ( Vỏn vẹn chỉ có thế, hoàn toàn không ghi gì thêm,và nếu có phụ bản đính kèm, phải ghi rõ,vì đây là một sự kiện quan trọng,không thể có chuyện hiểu ngầm hay suy diễn)

Hãy thật vô tư và nhận định vì sao có văn bản nầy,hay rõ nét hơn là:

            2/- Bối cảnh công hàm ra đời:

            Trước tiên, ta thấy chữ “đồng chí”, chứng minh đây là lối xưng hô của những “người Cộng sản anh em”. Thật vậy, Trung Cộng và Cộng sản Bắc Việt là “đồng chí” với nhau.Hơn thế nữa, qua bao nhiêu năm ,cả quốc tế đều thấy rõ Cộng Sản VN có được là đa phần  do công sức của Trung Cộng  tạo dựng, nuôi dưỡng.Cụ thể hơn, CSVN là “con”, mà là “con cờ” của TC, vì vậy, “cha” nói gì hay ‘hô” một tiếng, CSVN phải “ứng” theo ngay. Đây là một sự kiện thật hệ trọng của quốc gia,mà trên nguyên tắc luật pháp và ngôn ngữ hành chánh, giữa các quốc gia, không có chuyện “đồng chí” ở đây, chỉ có Thủ Tướng hay Quốc Trưởng, Tổng Thống.  Các từ “đồng chí” chỉ có ý nghĩa trong nội bộ các ông mà thôi.(Căn bản của họ với từ “đồng chí” chỉ là nội bộ của họ mà thôi, trên công pháp hầu như không có, hay nhẹ nhàng hơn là vô giá trị.Nếu nói theo “bình dân học vụ”, thì đây chỉ là chuyện trong phòng riêng của đôi vợ chồng Trung -Việt Cộng mà thôi)

            Mặt khác, trong bối cảnh cuối thập niên 1950, đang xảy ra nhiều biến động không có lợi cho Trung Cộng.Vào thời nầy, họ cũng chưa đủ mạnh,nhưng tham vọng thì luôn nung nấu trong lòng.Đặc biệt trong năm nầy, hội nghị công ước về Luật Biển của L.H.Q nhóm họp, phía Mỹ cho rằng lảnh hải chỉ là 3 hải lý,Trung Quốc nới rộng 12 hải lý(nhằm giới hạn sự tiếp cận và tấn công của nước ngoài với lảnh thổ của T.Q)Trong bối cảnh như vậy, họ công bố lảnh hải 12 hải lý,mà chủ yếu là giành lấy các đảo cùng Đài Loan. Đây là tình trạng cấp bách và cần thiết về phía Trung Cộng, Cộng Sản Bắc Việt lúc nầy chẳng việc gì phải ứng phó.  Nhưng nhân cơ hội, mập mờ “đánh lận con đen”, họ đã đồng thời nhận vơ vào họ 2 quần đảo Hoàng và Trường Sa của Việt Nam (Bản tuyên bố nầy cũng là bản sao chép  đề nghị của đại diện Liên Sô năm 1951 tại hội nghị San Francisco,và bị nghị hội bác bỏ). Tuyên bố láo lếu là quyền của họ, vấn đề là VN có “trao” cho họ không. (Sẽ được trình bày sau), Vấn đề cần nói là VN là “đàn em”, và đang rất cần họ trợ giúp trong âm mưu xâm chiếm luôn miền Nam, nên phải chiều chuộng đàn anh , vì  vừa là đồng chí,vừa là anh em”(!).Tuy nhiên có phải vì vậy mà phải đến nổi “nhường” 2 quần đảo cho TC không. Người ta không cần đề cập đến những “bí ẩn” bên trong “anh em bầu bạn”, mà chỉ xét trên văn bản chánh thức cùng những sự kiện, chứng lý cụ thể qua những chặng đường lịch sử, những văn kiện chánh thức và nhứt là những sự thật cụ thể, rõ nét, mọi người đều thấy rõ, Việt Nam Cộng Sản, qua công hàm 1958 hoàn toàn không giao 2 quần đảo cho “quan thầy’ bao giờ. Kết luận nầy căn cứ vào những yếu tố như sau:

            a/-Đây là một vấn đề thật trọng đại, liên quan đến lảnh thổ lảnh hải và mang tầm cở quốc tế, không thể có sự hiểu ngầm, mà phải chi li từng lời từng chữ.Trong công hàm , Việt Nam chỉ nêu sự kiện công nhận “lảnh hải 12 hải lý”, không có câu chữ nào khác. Hơn ai hết, ông Phạm văn Đồng cũng thừa hiểu quyền hạn về “lảnh thổ” là của quốc hội (cho dù là “quốc hội đảng cử dân bầu” của họ). Giả dụ nếu có phụ bản đính kèm,thì phải ghi rõ và kèm theo với cả chữ ký con dấu.   Chuyện quốc gia đại sự,đâu phải như đùa. Và cần xác định lại cho rõ một lần nữa, trong quốc thư chánh thức trên xã hội văn minh thế giới, chữ “đồng chí”, không có ý nghiã gì, và coi như không có. Từ ngữ “đồng chí” là của riêng của các người Cộng sản,không can hệ gì với thế giới và công pháp quốc tế.

            b/- Trong thời điểm nầy, Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam Cộng Hoà,một quốc gia có chủ quyền được quốc tế công nhận. Trên trường quốc tế, rõ ràng hiện hữu HAI QUỐC GIA (VIỆT NAM CỘNG HÒA và VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA, ông Thủ Tướng nước khác là V.N.D.C.C.H không thể có quyền tài phán(hay làm chủ) hai quần đảo nêu trên,vố của VIỆT NAM CỘNG HÒA.Công lý không thể chấp nhận, không thể tưởng tượng nổi một người trao cho ai đó món gì không phải của mình,hoàn toàn không có trong tay mình. (Đây cũng là lý lẽ mà các viên chức Cộng sản từng nêu lên nhiều lần sau nầy)

            c/-Đối với hành động láo lếu của Trung Cộng, người ta có thể nêu lên một lý luận vô cùng “bình thường” nhưng rất căn bản, Việt Nam hoàn toàn không có hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa, thì lấy đâu mà giao(nếu muốn giao) cho Trung Cộng,vì Việt Nam chỉ có “HOÀNG và TRƯỜNG SA mà thôi.

 

3/- Công hàm qua đánh giá, nhận định của quốc tế khách quan:

            a/- Trước tiên, về đánh giá của GS Carl Thayer (nguyên GS học viện quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và Đông Nam Á). Theo vị GS nầy, công ước quốc tế về luật biển(UNCLOS) không chấp nhận yêu sách về lịch sử hay sự biện minh lịch sử  là yếu tố quyết định trong việc xác định chủ quyền( TC cứ to mồm nêu “sự kiện lịch sử cả ngàn năm, và đã tự vẽ cái lưõi bò)Vị nầy cũng nói rõ: “luật pháp quốc tế đòi hỏi một quốc gia yêu sách chủ quyền phải chứng minh việc chiếm hữu và quản lý liên tục”. Từ đó, ông cũng đã khẳng định, chánh quyền phong kiến V.N đã xác định và thực thi chủ quyền môt cách hoà bình và liên tục từ thế kỷ 17-18. Qua thời Pháp thuộc, chánh phủ Pháp cũng đã thay V.N thực thi chủ quyền và khi Pháp ra đi, trả độc lập lại cho VN, Pháp cũng đã chánh thức giao quyền quản lý cho V.N hai quần đảo nầy.(Và lúc nầy,hoàn toàn không có nước nào mang tên Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam cả)  Ông cũng nêu lên lên sự kiện T.C không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào chứng minh họ chiếm hữu 2 hai quần đảo nầy, trước khi họ dùng võ lực đánh chiếm phi pháp Hoàng Sa tháng 1/1974 và một số bãi đá ngầm Trường Sa của V.N năm 1988. Đặc biệt, về công hàm 1958, vị GS nầy đã nêu rõ: “Bức thư của Thủ Tướng Phạm văn Đồng gửi Trung Quốc không đề cập tới Hoàng Sa hay Trường Sa, cũng như không hề thừa nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958, VNDCCH vẫn hy vọng thống nhứt theo các điều khoản chính trị của Hiệp định Genève, còn VNCH vẫn duy trì sự hiện diện liên tục ở nhóm Nguyệt Thềm(Hoàng sa từ 1956 đến tháng 1/1974”( thì bị TC dùng vũ lực đánh chiếm).

 Vị GS nầy cũng phân tích thêm:” sự phản đối của chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMN), ngay sau khi TCđánh chiếm Hoàng Sa.  Chánh phủ LTMNVN  cũng là một bên ký trong HĐ Paris trước khi VN thống nhứt năm 1975 , cùng với VNDCCH(Bắc Việt) trở thành thống nhứt và là thành viên của LHQ. Sau khi thống nhứt, CHXHCNVN trở thành quốc gia kế thừa và tiếp tục chánh sách của CPLTMNVN liên quan đến biển Đông”. (tức là thi hành theo yêu sách cùa Chánh Phủ Lâm Thời). . .

            b/-Một nhà nghiên cứu khác, ông Leszek Buszynski (Đại học quốc gia Úc) đã khẳng định :” Theo các quan điểm hiện đại trên thế giới,biển Đông chưa bao giờ là lảnh thổ của Trung Quốc.Đó là một khu vực ở rất xa lục địa và thực sự không phải là một phần của đế chế Trung Quốc”

            c/-Nhà nghiên cứu Jean Pierre Ferrier( Đại Học Paris 2-Pháp) cũng khẳng định như sau: “nghiên cứu về lịch sử chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, cho thấy dưới cái nhìn của luật pháp quốc tế,Trung Quốc chưa hề thực hiện  sự chiếm đóng hiệu quả, liên tục và bình thường, cho tới khi sau cuộc tấn công quân sự và chiếm đóng trái phép năm 1974.Việc chiếm đóng và triển khai quân sự của Trung Quốc đã vi phạm trầm trọng luật pháp quốc tế(xử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp),không thể hợp thức hoá việc Trung Quốc thay thế chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo nầy.” Nhà nghiên cứu cũng đã nêu rõ thêm: “ Mặc dù chiếm đóng kéo dài đã 40 năm , nhưng cơ sở của việc chiếm đóng vẫn không có gì thay đổi. Chiếm đóng bằng vũ lực chưa đủ để hơp thức hoá. Trung Quốc chưa bao giớ thực hiện bất cứ hành động chánh thức nào đáp ứng theo quan điểm của luật pháp quốc tế.  Nghị định thư cấp tỉnh năm 1921 là không đủ, bởi vì không phải là chủ thể được luật quốc tế nhìn nhận.” ( năm 1921, thống đốc của tỉnh Quảng Đông tuyên bố sát nhập  Hoàng Sa vào đảo Hải Nam, nhưng không thực sự chiếm hữu Hoàng Sa. Cũng có một số ít ngư dân Hải Nam được phép ra khai thác phân chim, thường chi tạt vào vài giờ.Theo công pháp, tỉnh Quảng Đông chỉ là cấp tỉnh, không thể thay thế nước Trung Quốc .Chỉ có quốc gia mới là một chủ thể được quốc tế công nhận). . Riêng đối với công hàm 1958, giáo sư nầy đã nói rõ:” Vào thời điểm đó và cho tới thời điểm thống nhứt Việt Nam năm 1975, ông Phạm văn Đồng không có quyền tài phán nào đối với quần đảo Hoàng Sa, mà lúc nầy thuộc Đà Nẳng của Việt Nam Cộng Hoà”

            Và còn vài nhà nghiên cứu luật gia quốc tế, với những luận cứ tương tự . . .

d/- Cuối cùng,đây là một  điểm mấu chốt căn bản .Đó là, lời tuyên bố của T.Q chỉ là “lời tuyên bố đơn phương”(unilateral declaration) nên cần phải có văn kiện pháp lý quốc tế liên hệ giải thích.Đằng nầy, ngay thời điểm đó ,T.C đã không đưa ra một văn bản nào chứng minh rằng H.T S  là của họ.Mà nguyên tắc hàng đầu theo điều 8 cuả Luật Q.T thì coi như tuyên bố của TC hoàn toàn không có giá trị.   Ta hãy nêu lên “chuyện như đùa”, giả dụ Hoa Kỳ là một quốc gia yếu kém, Trung Cộng có thể đơn phương tuyên bố rằng Hoa Kỳ là lảnh thổ của họ, vì trong thế kỷ 19,20, hàng ngàn người Tàu có mặt(qua xứ nầy làm phu phen đường sắt, rồi chết chôn xác nơi bang Cali), thì đất Hoa kỳ là của Trung Hoa. !!!

Và rồi, Trung Cộng đã lại đưa ra nguyên tắc”estoppel”.Nguyên tắc nầy vốn có từ lâu trong luật áp dụng tại Anh quốc, sau nầy được đề cập trong luật quốc tế. Vậy estoppel là gì?. Là một nguyên tắc theo đó “một quốc gia không có quyền nói hay hoạt động ngược lại những gì mình đã nói hoặc hoạt động trước kia”(?). Trung Cộng đã nhận vơ,nhưng rồi thấy mình đuối lý nên đã lại nêu lên nguyên tắc nầy, với hàm ý,nếu trước đó(1958) Bắc Việt qua công hàm của PVĐ gởi cho TC, thì nay đã nuốt trọn được miền Nam(có sỡ hữu 2 quần đảo) thì phải giữ lời hứa, nếu không là vi phạm nguyên tắc estoppel. Thật buồn cười, chỉ toàn nói suông, vì chưa bao giờ và không bao giờ có một văn bản nào của VN giao 2 đảo cho TC cả.

Cần phải ghi ra một sự kiện vô cùng quan trọng,nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà(Bắc Việt) trước năm 1975 và  Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (gồm Bắc Việt và Việt Nam Công Hoà sát nhập sau 1975)là hai quốc gia hoàn toàn khác biệt và được quốc tế hoá(được quốc tế công nhận).Và quốc gia C.H.X.H.C.N.V.N(khoản 1976) không nợ nần  gì cả, không ràng buộc gì cả với Trung Cộng. Công hàm của ông Phạm văn Đồng đươc ký kết năm 1958, trong khi quốc gia sau nầy khai sinh vào năm1976. Thêm một sự kiện quan trọng khác nữa cần quan tâm. Đó là, trước năm 1975, xuất hiện một chánh phủ gọi là Chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.Không đi sâu vào phân tích,  về khía cạnh nào đó, khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, chánh phủ nầy đã phản đối, và ngày 30-4-1975, cũng quốc gia nầy tiếp quản lảnh thổ VNCH(trong đó có 2 quần đảo H. và T. Sa)  Một năm sau đó(1976),chánh phủ V.N.D.C.C.H “nuốt chủng” miền Nam thành lập nước CHXHCNVN. Rõ ràng quốc gia Cộng Hoà Miền Nam VN không nợ nần, cam kết gì với Trung Cộng. Sự kiện rõ như ban ngày,được cả quốc tế công nhận, thế nhưng khi có cơ hội TC luôn lải nhải về nguyên tắc estoppel.(?) Càng đáng tiếc hơn, người ta cũng thấy một vài “luật gia, nhà nghiên cứu” tại hải ngoại đã chẳng hiểu do đâu đã đề cập nguyên tắc nầy với hàm ý VN phải giữ đúng lời  cam kết.

4/-/-Về công hàm nầy, chánh phủ V. N Cộng sản dù cả nể Trung Quốc, cũng đã nhiều lần công bố bạch thư,họp báo nêu lên quan điểm của mình.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt, giảng viên Luât quốc tế (Sài gòn) cho là “công hàm vào thời điểm đó,mà Trung Quốc cũng đã ký vào Hiệp Định Genève,cũng thừa hiểu và công nhận về pháp lý,Thủ Tướng Phạm văn Đồng(Băc Việt) không có trách nhiệm quản lý phần lảnh thổ phía Nam(dưới vĩ tuyến 17) –(www.wikipedia.org/wiki/cong ham).

Về tiếng nói chánh thức ,cũng không thiếu,như trong cuộc họp báo ngày 23/5/2014,Bộ ngoại giao VN Cộng Sản lần đầu tiên chánh thức tuyên bố: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư, chứ không đề cập tới Hoàng Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gởi Trung Quốc lúc đó Hoàng và Trường Sa thuộc quyền quản lý của VNCH. Trung Quốc cũng  là một bên tham gia ký kết trong hiệp định Genève 1954. Rõ ràng không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được(Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới,Bộ Ngoại Giao VN)- www.vi,rf.f/vietnam

VII/-Về phán quyết của toà trọng tài quốc tế:

            Cùng liên quan vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, vừa qua trong năm 2016, một sự kiện vô cùng quan trọng là quốc gia Phi Luật Tân đã kiện T.C ra toà án quốc tế.Kết quả,Toà Trọng Tài Thường Trực Q.T La Haye ra phán quyết nói rõ :

            -T.Q đã xâm phạm chủ quyền của Philippines tại vùng đặc quyền kinh tế .Toà án nầy cũng nói rõ,Trung Quốc không có vùng đặc quyền kinh tế nào ở Trường Sa (mà đa phần các đảo là của VN thụ đắc làm chủ từ bao trăm năm),ngay cả đảo Ba Bình mà Đài Loan đang tạm kiểm soát, cũng không phải là đặc quyền kinh tế của T.Q.

            -Phán quyết cũng nêu rõ T.Q đã gây nhiều tác hại không thể khắc phục đối với các rặng san hô ở Trưòng Sa, tạo nguy cơ gây căng thẳng.

            -Phán quyết cũng chỉ trích T.Q,xây dựng các đảo nhân tạo là điều không phù hợp với trách nhiệm của môt quốc gia.

            Chúng ta đã biết, Toà Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế là cơ quan quốc tế có trách nhiệm phân xử giải quyết các tranh chấp,mà chính Trung Quốc đã long trọng ký kết. Cần nhắc lại là vào tháng 1/2013 Philippines đã nạp đơn thưa T.Q ,và  mãi đến 3 năm sau(1/2016),toà nầy đã  ra một phán quyết dài 497 trang nêu những sai trái của T.Q. Nước Phi đã nêu những bằng chứng cùng lý luận , đặc biệt cho rằng “cái lưỡi bò” do T.Q tự vẽ là điều vô cùng phi lý, vô căn cứ không phù hợp với công ước quốc tế về Luật Biển(UNCLOS). Tiếc thay, phán quyết của Toà lại không có tính cưởng hành, và cũng không có cơ quan nào trừng phạt nếu quốc gia bị thua kiện không thi hành.Và dĩ nhiên,T.Q muối mặt “không chấp nhận” phán quyết nầy,cũng như không đưa ra những phản biện như thể lệ cho phép. Và cũng đáng tiếc thay, công lao của chánh phủ Phi trước, lại bị chính ông T.T sau nầy của họ là Duterte sổ toẹt.Vụ việc không thể trình bày chi tiết hơn, có điều cho dù phán quyết không có tính cưởng hành,nhưng đã là một cái tát đau cho T.Q,là một vết nhơ cho một quốc gia tự nhận có nền kinh tế đứng thứ hai toàn cầu. Vế phiá VN, đây là một điều quá tốt, có thể nói đây là một án lệ hoàn toàn có lợi cho VN.Tiếc thay, và cũng đau đớn thay cho đất nước VN, đã “không thèm” đâm đơn kiện như Phi,vì nếu kiện đương nhiên sẽ thắng lợi. Cũng còn may, phát ngôn viên Bộ ngoại giao VN đã cho hay “Việt Nam hoan nghênh phán quyết của Tòa và chánh phủ VN sẽ ra tuyên bố chánh thức về nội dung phán quyết nầy”.

Cũng cần nhắc lại, Toà Trọng Tài là cơ quan với các luật gia tài giỏi công minh (mà T.Q không dễ gì mua chuộc bằng tiền hay thủ đoạn nào), và phán quyết sẽ đi vào lịch sử. Hiện nay,thì hầu như tất cả  các quốc gia văn minh.dân chủ đã biểu lộ sự đồng tình,cụ thể như chánh phủ Nhựt đã gọi: “phán quyết của toà là chung cuộc,mang tính ràng buộc về pháp lý đòi hỏi tất cả các quốc gia phải tuân thủ”. Cũng như ông Chủ Tịch Hội Đồng Âu Châu Donald Tusk nói rằng: “ tất cả các quốc gia đều có bổn phận phải bảo vệ điều nầy” (www.rfa.org ) ngày 12/7/2016.

            Sau đây là một vài sự kiện vô cùng quan trong, để chứng tỏ Hoàng Trường Sa là của Việt Nam, bởi vì chính TRUNG HOA TỰ NHẬN  điều nầy.

******            Sách của Trung Quốc khẳng định Hoàng,Trường Sa là của Viêt Nam.(https://mail.google)

Đây là một tài liệu vô cùng quý giá,được in vào đời vua Đức Tông(Tải Điềm nhà Thanh,niên hiệu Quang Tự 1875-1909). Sách có tên “danh hoàn chí lược”(sách ghi chép về địa lý thế giới),in thạch bản bằng chữ Hán.Sách cở khổ 20cm x14.5 cm , gồm nhiều tập, biên sọạn từ năm 1849 và đến 1894 mới được in.Đây là những chi tiết liên quan khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Nơi quyển một (gồm 3 tập) có ghi các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam.Kèm theo có bản đồ mang tên  “Hoàng Thanh nhứt thống dư địa toàn đồ”( bản đồ toàn quốc thống nhứt đời nhà Thanh),trên bản đồ nầy có vẽ các nước cùng có chung biên giới với Trung Quốc như:Việt Nam, Mộng Cổ, Ấn Độ, Triều Tiên.Nơi phần biển đảo,Trung Quốc chỉ vẽ tới đảo Quỳnh Châu(Hải Nam) ,đảo Đài  Loan( Trung Quốc và kế tiếp là biển,hoàn toàn không có vẽ hay ghi chú đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Điểm cuối lảnh thổ của Trung Quốc là Hải Nam  mà thôi). Nơi trang 41 và 41,có vẽ eo biển Quảng Nam (có ghi rõ Nam Việt-tức Việt Nam),bên cạnh eo biển nầy có vẽ đảo Thất Châu Dương,tức Hoàng Trường Sa-Vạn Lý Trường Sa.Trên bản đồ có ghi rõ Thât Dương Châu thuộc địa phận biển Việt Nam.Nơi trang 55 và 56,có vẽ và chú thích về Ấn Độ Dương và có ghi rõ : “biển và đảo Thất Dương Châu  (của Việt Nam) giáp với Quỳnh Châu( Hải Nam ) của Trung Quốc.

 

VIII/- Những sự kiện quan trong liên quan:

 Sau đây là một vài sự kiện liên quan:

1/-Bà Thủ Tướng Đức tặng bản đồ cho Tập Cẩm Bình (lảnh tụ Trung Hoa).

.

            Trong chuyến viếng thăm  Đức Quốc, vào buổi tiệc tối ngày 28/3/2014,bà Thủ Tướng quốc gia nầy đã tặng cho họ Tập tấm bản đồ vẽ năm 1735, in tại Đức.Trong tấm bản đồ  có chú thích bằng chữ Latin” Trung Quốc Chuẩn” cho thấy vùng dân cư người Hán ,không có Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ  hay Mãn Châu.Biên giới tận cùng của Trung Quốc về phiá nam kéo dài đến đảo Hải Nam là hết (và đương nhiên không có 2 đảo Hoàng và  Trường Sa của Việt Nam.)

Đây là một động tác vô cùng ý nghiã, mà theo tin tức, họ Tập rất xấu hổ khi khám phá ra sự thật.Trong ngọai giao, mọi động tác đều được nghiên cứu kỹ,và bà Thủ Tướng không phải vô tình tặng tấm bản đồ.Thật ra nếu là một bản đồ bình thường thì chắc bà Thủ Tướng “không quỡn” làm cử chỉ nầy.Về giá trị, đây là bản đồ in hàng vaì trăm năm trước, không có tên các nước nêu trên, Như vậy chỉ về sau,chính Trung Quốc đã lần lượt xâm lăng các quốc gia đó. Riêng về đối với Việt Nam, hẳn bà Thủ Tướng và tất cả các quốc gia văn minh tiến bộ (chỉ trừ Nga Sô vì lợi ích riêng tu đã lấp lửng) đều biết rõ Hoàng Sa và Trưòng Sa là của Việt Nam,mà từ 1974 Trung Hoa đã dùng vũ lực lấn chiếm. Sự chiếm giữ bằng vữ lưc  của Trung Cộng cả thế giới đều biết,thì coi như vô giá trị.

            Thật vô cùng đau đớn cho tổ quốc Việt Nam, ngày nay Trung Quốc đã ỷ thế “sức mạnh trên đầu súng” và “công lý trên đầu súng”, mưu toan chiếm tất cả biển đảo của Việt Nam.Niềm đau nầy vô cùng tận,nhưng còn một niềm đau vô  cùng nữa là người dân Việt biểu tình phản đối Trung Quốc thì bị chính chánh quyền Viêt Nam đàn áp thẳng tay. Thật là một điều lạ lùng không hiểu nổi. (Sự thật cần nêu lên, là trong nước  và các nước C.S khác cũng thế,họ  hoàn toàn không chấp nhận biểu tình, cho dù mục tiêu cuộc biểu tình là gì)Và tiếp theo là:

 

            2/-Một thanh niên ,một nghiên cứu sinh Trần Thắng  chứng minh Hoàng Trường Sa là của Việt Nam(http://mail.google.com.mail)

Tại đại học Yale (Hoa Kỳ) đã tổ chức triễn lãm “Hội thảo quốc tế về sự xung đột trong biển Đông”.Nơi đây, có xuất hiện một tài liệu triễn lãm vô cùng giá trị do anh Trần Thắng sưu tập, sau nhiều năm tìm tòi và mua lại với chính tiền túi của anh.

Tài liệu gồm có:

            -20 bản đồ Hoàng Sa

            -20 bản đồ cổ Trung Quốc

            -và 2 sách Atlas.

            Trong số tư liệu nầy có dữ kiện chính xác và đáng ghi nhận như sau

            -20 bản đồ Hoàng Sa do các nước phương Tây và Việt Nam vẽ từ 1618-1859, cho thấy Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

            -20 bản đồ từ 1626-1980, cho thấy phía nam tận cùng của Trung Quốc là đảo Hải Nam

           

3/-Tài liệu Trung Cộng tự nhận:

Trong triễn lãm nầy của Ông Trần Thắng cũng gồm có- hai sách bản đồ Atlas,một cuốn do nhà nước Trung Hoa phát hành tại Nam Kinh (1933) và một cuốn do Bộ Giao Thông Trung Hoa Dân Quốc in năm 1919 tại Nam Kinh.Ấn bản do nhà nước Trung Hoa phát hành bằng 3 ngôn ngữ:Trung Hoa, Anh,Pháp.

            Những tư liệu chánh thức do chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc in ra không thể có sự lầm lẫn được.Người ta được biết, sau nầy Trung Cộng đã cho thu hồi thiêu hủy hầu hết các tư liệu nêu trên,nhưng tại các nước khác, trong thư viện các nước khác, Trung Cộng không thể.Và sự thật đã quá rõ.

            Còn thật nhiều tài liệu  chứng tích,vì sự thật mãi mãi là sự thật ,rất tiếc không cập nhựt đầy đủ nơi đây.Hy vọng những góp nhặt,tóm lược phần nào góp phần vào những gì người Việt mọi nơi,mọi miền,mọi chánh kiến cần muốn biết về hai quần đảo thân yêu của Việt Nam.

                                                                                                                      Hùng Việt

 

Tài liệu tham khảo:

_  http://nghiencưbiendong.vn/tổng quan

-http:// thuvienphapluat.vn/tintuc

-wikipedia.org/wiki/haichienhoangsa

-web.archive.org

Hoàng Trường Sa”, LS Nguyễn Hữu Thống(Nhựt báo Người Việt số 8070 ngày 11/1/2008)

“Hoàng Trường Sa dưới khía cạnh pháp lý và lịch sử”,LS Nguyễn Hữu Thống(NB/Người Việt số 8069 ngày 10/1/2008)

-“Thêm những đều cần nói về Hoàng Trưòng sa”,LS Đổ Thái Nhiên,NB Người Việt ,ngày 28/1/2008

_”Cộng sản Việt Nam và vấn đề Hoàng Trường Sa”,NB Viễn Đông ngày 29/12/2007

-Trận Chiến Hoàng Sa, Đại tá Hà văn Ngạc,dài Little Sài gòn  ngày 21tháng 12/2007

 

Phụ đính: Tài liệu trong kho lưu trữ của Pháp:


 


Hai tài Liệu tại kho lưu trử Pháp khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam

(Năm 1938, khi còn bảo hộ Việt Nam, Chính phủ Pháp nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Tài liệu được lưu trữ tại Trung Tâm Lưu Trữ Của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Marseille, Pháp: Kí Hiệu Hồ Sơ số: MQ28/02.)

Việt Nam xây dựng Trạm khí tượng tại Hoàng Sa

Ở tài liệu thứ nhất, với đề tài: “Pháp có chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa (Paracels) hay không?” đã khẳng định: “Ngày xưa, quần đảo Hoàng Sa là thuộc về Việt Nam. Vương triều An Nam (nhà Nguyễn – người dịch) đã đóng quân trên đảo này từ đầu thế kỉ XIX. Quần đảo này là vùng thuộc chủ quyền của An Nam (Đại Nam tức Việt Nam – người dịch). Pháp chỉ làm cái việc là khẳng định tất cả các quyền không thể chối cãi đối với quần đảo này. Vấn đề này là thực tế”.

Tư liệu lưu trữ (1938) khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa

Năm 1932, dưới thời Toàn quyền Pasquier, một tàu Pháp đã đổ bộ lên và cắm cờ Pháp trên quần đảo này.

Tài liệu cho biết thêm: “Để bảo đảm an toàn hàng hải trên vùng biển này, chính quyền Đông Dương đã thiết lập trên quần đảo này hai ngọn hải đăng và một trạm khí tượng. Một vài biệt đội vùng với lực lượng đông đảo cảnh sát người Việt cũng đã được cử đến quần đảo này để bảo vệ những công trình này. Trong năm 1937, một quan chức hành chính của chính quyền Đông Dương cùng 6 lính bảo an đã thực hiện cuộc kiểm tra trên quần đảo này nhằm duy trì hai ngọn hải đăng và bảo đảm cho trạm khí tượng đặt trên quần đảo này được hoạt động tốt”.

Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ thế kỷ XIX

Tài liệu thứ hai trong Hồ sơ lưu trữ cho biết: “Theo luận điểm của Pháp, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam bởi Vua An Nam (Vua Nguyễn) vào năm 1816, sau đó là bởi Courbet vào năm 1885. Vào năm này, Trung Cộng đã thừa nhận rằng, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”.

Tài liệu cũng nêu rõ, lối vào quần đảo Hoàng Sa là vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là không thể.

“Quần đảo này được tạo bởi 36 đảo nhô lên hoặc đảo chìm. Yếu tố này thực sự nguy hiểm đối với giao thông hàng hải. Những đảo lớn của quần đảo này bao gồm các đảo: Tri Tôn, Pyramide, Lincoln, Boiseé, Rocheuse, Roberts, Pattle, Amphitrite,…”.

Một số hải đội người Việt đã đóng trên quần đảo này, nằm giữa đảo Hải Nam và cảng Đà Nẵng. Tuy nhiên, khi Chính phủ bảo hộ Pháp và triều đình Việt Nam thiết lập trên quần đảo Hoàng Sa một vài ngọn hải đăng và trạm khí tượng để kiểm soát bão, thì Bộ Ngoại Giao Trung Cộng lại kiến nghị với Bộ Trưởng Pháp rằng, quần đảo này là của Trung Cộng.

Chính phủ Pháp khẳng định, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam năm 1816. Đến năm 1885, Trung Cộng cũng đã thừa nhận, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

Trung Tâm Lưu Trữ Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Marseille (CCIMP) ở số 9 đường La Canebìere, 13001, thành phố Marseille, nước Pháp. Trung tâm này chủ yếu lưu trữ những tài liệu liên quan tới thương mại giữa Pháp và các nước trên thế giới cũng như với thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Nguồn tài liệu ở đây được chính thức thu thập và lưu trữ từ thế kỷ XVII. Các hồ sơ lưu trữ ở đây phản ánh những thông tin liên quan tới chính sách thương mại, quan hệ thương mại, thuế từ thế kỉ XIII đến nay. Nguồn lưu trữ ở đây được chia thành 3 phông chủ yếu: Phông cũ là những hồ sơ chứa đựng thông tin từ năm 1801 trở về trước, gồm các tư liệu từ A đến K. Phông hiện đại là những hồ sơ chứa đựng thông tin từ năm 1801 đến nay, gồm các tài liệu nối tiếp: MA, MB, MC, MD, MÉTROPOLE, MF, MG, MH, MJ, MK, ML, MM, MN, MP, MQ, MR, AC. Phông đính kèm là những hồ sơ liên quan tới các công ty thương mại, những nhân vật, quan chức thương mại của Pháp và các thuộc địa Pháp. Tài liệu liên quan tới Hoàng Sa mà chúng tôi đề cập nằm lẫn trong Hồ sơ série MQ thuộc phông hiện đại.

 

 

 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual