-Xóm Đạo Tha La .
Trước tiên, từ ngữ “xóm
đạo”, để chỉ một “xóm gồm những tín đồ theo cùng một tôn giáo sống chung cùng
nhau; nhưng từ “xóm đạo” thường để dành chỉ xóm của những ngưòi theo đạo thiên
chúa hơn. Xóm đạo cũng có thể hiểu là một họ đạo. Nói về xóm đạo, trên toàn cỏi
miền Nam có hàng trăm xóm như vâỵ, trong đó nhiều xóm, họ đạo rất nổi tiếng như
tại Sài gòn với xóm Bình An(quận 8), Tân Phú.. . Tại các địa phương có họ đạo Tắc
Sậy( Bạc Liêu), họ đạo Cù lao Giêng (Long Xuyên) được biết nhiều và đặc biệt “Tha
La Xóm Đạo”, vì lịch sử rất đáng lưu ý
mà chúng tôi trình bày sau đây. Và Tha La là gì, trước tiên đây là một danh xưng
nghe thật đễ thương vô cùng. Tha La nguyên thủy do từ “sa la’’, gốc tiếng Cam Bốt, với nghĩa ban đầu
là một cái chòi, trạm nhỏ hay nơi dùng cho các sư sải người Miên tu học. Ngày
xưa thật xưa, đường xá đi lại không nhiều, và cũng không có hàng quán bán nước
giải khát, bà con người mình hay cất một cái chòi nhỏ trên con đường nhiều người
qua lại, bên trong có một chum(hủ, khạp) nước với cái gáo múc thường bằng gáo trái
dừa khô, để bà con đi đường vào nghỉ chân và uống nước. Xóm Đạo Tha La chúng
tôi đề cập nay thuộc xã An Hoà, Trảng Bàng(Tây Ninh), là họ đạo có từ thời Pháp, qua
nhiều biến cố, nay vẫn còn và đang được xây dựng trùng tu. Là khách yêu thơ, hẳn
chúng ta còn nhớ bài “Tha La Xóm Đạo” của nhà thơ Vũ Anh Khanh,khi trở về thăm chốn cũ:
Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh.
.
. . . . . .
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già
Nắng lồ lộ rụng trên đầu viễn khách
Khách bước nhẹ trên con đường đỏ quạch
Gặp cụ già đang ngóng giữa bâng khuâng.
Và
cũng một nhà thơ khác, Kiên Giang Hà Huy Hà, ông nầy không nhớ ngôi giáo đường
Tha La, mà chỉ nghĩ đến “ngưòi em xóm đạo” qua bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên
Áo Tím”
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bôm che lấp vùng quê mẹ
Che cả người thương nóc giáo đường
. . . . . . .
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình xưa.
Năm
1964, nhạc sĩ Dũng Chinh phổ thành bài hát “Tha La Xóm Đạo” rất nổi tiếng. Sau
đó một năm, nhạc sĩ Sơn Thảo phổ thành bài hát mang tên “Hận Tha La”. Bài thơ
cũng được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc(?), trở thành bản tình ca nổi tiếng cùng với
“Chuyện Tình Giàn Thiên Lý”. Nhưng thôi, chúng ta hãy tạm quên chuyện thơ văn, mà
hãy nhớ đến Tha La Xóm Đạo với một hoài niệm vô cùng và khác biệt. Chúng ta nên
biết và nhớ địa danh nầy, thuộc huyện Trảng Bàng (Tây Ninh) là quê hương của
Trung Tá Hạm Trưởng Nguỵ văn Thà.
Trung
Tá hạm trưởng Nguỵ văn Thà và trận chiến vệ quốc:
Người anh hùng của chúng ta vốn là học sinh trường tiểu học Trảng Bàng, gần bờ sông Vàm Cỏ Đông, nơi có xóm đạo Tha La. Trung Tá Nguỵ văn Thà, hạm trưởng HQ 10 cùng 72 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh vào ngày 19 tháng 1/1974 khi quân Trung Cộng điên cuồng, ngang ngược xử dụng lực lượng nước lớn, áp đảo đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Lúc nầy, quân dân miền Nam đang phải tận lực chiến đấu bảo vệ quê hương ,giờ lại phải chống với quân Trung Cộng to lớn hơn nhiều.Tuy nhiên, hải quân chúng ta đã tuân hành lệnh của Tổng Tư Lệnh Tối Cao là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà, nổ súng đánh trả. Ta đã anh dũng bắn trả, tiêu diệt hai chiến hạm của địch,và vì lẽ nào đó không quân của ta lại không được ra tiếp sức, lực lượng của chúng ta cũng phải chịu thua thiệt. Than ôi, mãnh hổ nan địch quần hồ, cuối cùng về phía ta một số chiến sĩ oai hùng đã phải hy sinh.Riêng Trung Tá Thà, sau khi lo liệu cho chiến sĩ còn sống được cứu thoát, đã nhứt định ở lại cùng với chiến hạm và cùng 72 đứa con yêu của tổ quốc,mãi mãi ngủ yên dưới lòng biển lạnh.
Chúng
ta, nhân đây xin ghi lại tóm lược đôi điều về Hoàng Sa cùng trận hải chiến, mà
kết quả cuối cùng là Việt Nam Cộng Hoà đã phải bỏ hải đảo thân yêu cho Trung Cộng
chiếm đoạt. Hoàng Sa cùng với Trường Sa
là hai quần đảo mà từ nhiều trăm năm trước, Việt Nam đã đi lại khai thác, không
có bất cứ quốc gia nào tranh cản hay lên tiếng phản đối. . . Khi người Pháp xâm
chiếm VN làm thuộc địa, họ đã chánh thức công bố chủ quyền trên hai quần đảo nầy,và
khi họ trả độc lập cho chúng ta, cũng đã giao lại 2 quần đảo cho chánh phủ “Quốc
Gia Việt Nam”. Sau hiệp định Genève, Việt Nam Cộng Hoà thành hình, với lãnh thổ
từ vĩ tuyến 17 xuống tận Cà Mau, đương nhiên có chủ quyền trên 2 quần đảo vì
chúng nằm dưới vĩ tuyến 17. Thực tế, tại quần đảo Hoàng Sa cũng có một số ít đảo
nhỏ do Trung Quốc ngang ngược chiếm giữ, nhưng phần lớn các đảo do ta làm chủ,
ngư thuyền chúng ta đi về khai thác hải sản không bao giờ có sự kiện bị “tàu lạ”
nào cướp phá hay bắn giết ngư dân.
Một sự kiện thật quan
trọng có tính cách lịch sử(và công pháp quốc tế),là vào năm 1951, tại hội nghị
San Francisco,với sự hiện diện của 51 quốc gia, Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam, ông
Trần văn Hữu đã long trọng tuyên bố chủ quyền trên 2 quần đảo, mà không gặp bất
cứ một sự kháng nghị nào của bất cứ quốc gia nào(kể cả phe anh em T.Q là Liên
Sô). Cũng cần nói rõ là trong nghị hội nầy không có đại diện của Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa(Trung Cộng) hay Trung Hoa Dân Quốc(Đài Loan), vì giữa Liên
Sô và Hoa Kỳ không thống nhứt được việc chọn phe nào là đại diện quyền lợi
Trung Hoa. Cũng phải nói thêm là khi đệ nhị thế chiến kết thúc, Nhựt là phe
thua trận, phải bị giải giới và rút khỏi Đông Dương. Quân của Tàu Tưởng trách
nhiệm giải giới quân Nhựt phía bắc, và quân Anh phụ trách phía nam. Cần phải
xác định rõ, giải giới hoàn toàn không phải “chiếm đóng” hay giành quyền làm
chủ. Khi hội nghị San Francisco diển
ra, thì trớ trêu thay phe Tàu Tưởng bị thua,chạy ra thành lập “Trung Hoa Dân Quốc”
tại Đài Loan. . . Trong hội nghị nầy, với nội dung chính là quân Nhựt từ bỏ mọi
quyền lợi trên các đảo (trong đó có Hoàng, Trường Sa) và bác bỏ hoàn toàn quyền
hạn của Trung Quốc liên quan đến các đảo.Nghị Quyết đã được 46 phiếu thuận áp đảo.
Sau đó, Liên Sô cố bênh vựcTrung Cộng bằng cách đưa ra tu chánh án về quyền hạn
(và quyền lợi) của Trung Cộng liên quan các đảo tại Thái Bình Dương. Đây là một
đề nghị “cố đấm ăn xôi” hoàn toàn vô căn cứ nên đã bị nghị hội bác bỏ với số
phiếu gần như tuyệt đối.(48/51).Và sự công bố khẳng định đầy chánh nghĩa và lý
lẽ của đại diện Quốc Gia Việt Nam nói rõ: “. . . để dập tắt những mầm móng các tranh chấp sau nầy,chúng
tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đôí với các quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa, những quần đảo luôn thuộc về Việt Nam. . “Lời tuyên bố không gặp bất
cứ sự phản đối hoặc bảo lưu quốc tế nào.)(Xin lưu ý, là theo trang web của nhà nước CSVN họ cũng chánh thức ghi nhận dự kiện nầy).Sau
cuộc chiến quốc cộng, Trung Cộng cuối cùng đã chiến thắng và họ cần thời gian củng
cố thực lực,và dĩ nhiên tham vọng bá quyền
luôn nung nấu trong đầu họ, cũng như phe “dân quốc”, tất cả “Tàu nào cũng là
Tàu”đều muốn nuốt chửng Việt Nam(Buồn thay, chẳng biết đến bao
giờ tất cả người Việt Nam cùng nhìn về một hướng để nhận rõ thảm họa nầy). Và
do vậy, vào tháng 9/1958 Trung Cộng đã công bố chủ quyền trên bốn quần đảo Nam
Sa (Hoàng Sa), Đài Loan, Tây Sa (Trường Sa) và Bành Hồ cùng “ lảnh hải 12 hải
lý”.Ngày 22/9/1958 Thủ Tướng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) ra công
hàm tán thành công bố lảnh hải 12 hải lýcủa đàn anh T.C, nhưng hoàn toàn
không đề cập gì đến hai quần đảo(hoặc phụ bản đính kèm). Đây là một sự kiện
vô cùng quan trọng, liên quan đến lảnh thổ và quyền hạn là của quốc hội , không
phải đơn thuần của hành pháp. Trong thới gian từ 1964 đến 1970, Trung Quốc và
Việt Nam Cộng Hoà có những vụ chạm súng nhưng không gây thương vong. Riêng Việt
Nam luôn đối xử tốt, nhân đạo với các ngư phủ Trung Hoa bị lạc đưòng. Theo lời nhiều ngư phủ thuật lại, cụ thể như ông
Lữ Điều (làng Nam Ô, Đà Nẳng thuật lại : “ . . Từ đó đến tận ngày tháng 12 năm
1973, đơn vị địa phương quân của QL/VNCH bảo vệ Hoàng Sa vẫn thường xuyên cứu
ngư dân Trung Quốc gặp nạn. . .” . Ông nầy là ngưới tình nguyện tham gia vào đơn
vị bảo vệ H.S (www.thanhnien/vn.com ). Vào năm 1973, qua Hiệp Định Paris, người Mỹ
đã rút quân và thiết bị, không can dự vào Việt Nam nữa, và dĩ nhiên hải quân Mỹ (hạm
đội 7)đã “đứng ngoài” trong trận hải chiến vệ quốc của VN. Đến ngày 11/1/1974,
trước khi quyết đánh chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Và
phía Việt Nam một lần nữa, cũng ra tuyên
bố khẳng định chủ quyền. Ra tuyên bố và lực lượng Việt Nam giữ gìn hải đảo vẫn
hiên ngang kiên cường, sẵn sàng đối phó, dù còn đang phải dốc toàn lực chống lại
cuộc lấn chiếm từ phương Bắc. Trong trường hợp như vậy, V.N quyết định thành lập
một phi trường lớn tại quần đảo đủ để
phi cơ C7- Caribou có thể lên xuống, chuyển quân nhanh chóng, và ngày 16/1/1974
phái đoàn của Việt Nam ra chuẩn bị công việc như dự tính, thi khám phá ra sự hiện
diên của lính Trung Quốc.Ngày 17/1, chánh phủ Việt Nam gởi công hàm cho Hội Đồng
Bảo An/Liên Hiệp Quốc đề nghị ban bố biện pháp thích hợp để cải thiện tình
hình. Tiếc thay, trong cơ quan “què quặt” nầy có hai quốc gia là Trung Quốc và
Nga Xô có quyền phủ quyết, do vậy xem như lời đề nghị của VN chẳng một lời phản
hồi, và chiến cuộc diễn ra.
Đây
là một hồ sơ thật dầy, và đến nay còn ẩn chứa những điều “bí ẩn”, không thể
trình bày ngắn gọn, chỉ xin ghi ra vài sự kiện như sau:
-Xét về tương quan lực lượng
tại vùng xảy ra hải chiến, phía Việt Nam gồm 4 chiến hạm. Về phía Trung Quốc họ
cũng có 4 chiến hạm. Xét về tầm cở và vũ khí (tại trận chiến) phiá Việt Nam vượt
trội hơn nhiều.
-Chính hải quân Việt Nam,
thi hành lệnh của Tổng Thống VNCH, đã chủ động nổ súng bắn vào tàu Trung Quốc
trước. Phát súng đầu tiên do Đại tá Hà văn Ngạc,Hải Đội Trưởng Hải Đội III/Tuần
Dương ban lệnh vào lúc 10 giờ 25 phút
ngày 19/1. Đây là tiếng súng nói lên lòng cương quyết bảo vệ quê hương.
-Trong
cuộc hải chiến nầy, có sự xuất hiện “kỳ lạ”của một cố vấn Mỹ cùng lên đảo với đơn
vị bảo vệ đảo.Và sau trận chiến, phiá
Việt Nam đã có kế hoạch điều hai phi đoàn phản lực
F.5
ra Đà Nẳng, phi cơ phản lực F5 có tầm hoạt động 600 miles, đủ khả năng tác chiến
tại Hoàng Sa, nhưng rồi kế hoạch đã
không được thực hiện.(?). Chúng tôi ghi đôi điều hơi dài dòng, ghi lại một sự
kiện lịch sử vô cùng quan trọng. Quan trọng là để muôn đời người Việt Nam luôn
nhớ rằng Hoàng Trường Sa là của Việt Nam, và người Việt quốc gia đã quyết lòng
hy sinh để bảo vệ quê hương. Qua nhiều tài liệu, sự thật đã được minh chứng, và
chúng tôi đã trích lại, theo tài liệu của
Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Trong bài viết “Tổng Thống Thiệu và hải chiến Hoàng Sa”
(https://mail.google.com ).
Vào mùa thu 1976, Tiến sĩ Hưng đã có buổi hàn huyên cùng cựu TT Thiệu tại Luân
Đôn (nơi vị nguyên thủ quốc gia tạm định cư, trước khi sang định cư tại Hoa Kỳ)). Câu chuyện hơi dài, chỉ ghi vài chi tiết, về
sự kiện Hoàng Sa,TT Thiệu đã nói “. . Tôi còn định đi thêm bước nữa”, bước nữa
đây là ông Thiệu đã ra lệnh cho không quân VNCH oanh kích để phản công chiếm lại
quần đảo. Chính Đại Tá Nguyễn Quốc Hưng, Phụ tá Tham Mưu Phó Hành Quân/BTL
Không Quân xác nhận, vào lúc 8 giờ tối ngày 19/1/,T.T Thiệu ra lệnh cho không
quân Việt Nam dùng phi cơ siêu thanh F5-E phản công và không quân đã hai lần cất
cánh,mỗi lần 2 phi tuần, nhưng rồi phải hủy bỏ ,vì đệ thất hạm đội Hoa Kỳ tại biển
Đông đã “yêu cầu” ngưng kế hoạch oanh tạc vì “sẽ không có top cover, tức yễm trợ
khi phi cơ Trung Cộng từ Hải Nam bay lên không chiến và cũng sẽ không có
rescue, tức cứu vớt. Đồng thời,ngày 18, đại sứ của Hoa Kỳ là Martin cũng nhận được
chỉ thị: “ tình hình phải được hạ nhiệt” từ Bộ ngoại giao Hao Kỳ. . .Chúng ta
cũng nên biết là loại F5-E có tầm hoạt động trên 600 miles ,dư sức từ Đà Nẳng
bay ra, với khoản cách chỉ trên dưới 200 km (vì Hoàng Sa nằm trong vùng “đặc
quyền kinh tế,lảnh hải của VN).Sự kiện nầy, tác giả
Nguyễn Tiến Hưng đã nêu lên những nhân
chứng sống trong cuộc còn sống và định cư tại Hoa Kỳ như: Ông Lê quốc Hưng(Salem-Oregon-HK),
Thiếu Tá Phạm Đình Anh(Cali), Đàm Trường Vũ(Arizona), Vũ Viết Quý(Ca), Hồ văn
Giàu(Ca).
Trong bối cảnh hiệp định Paris đã được thực
thi, người bạn “đồng minh” Hoa Kỳ đã rút quân, xét về cán cân lực lượng về lâu
dài Việt Nam Cộng Hoà không thể đương cự với Trung Quốc. Chúng ta không đặt vấn
đề thắng thua, và cũng không phân tích chi tiết, chỉ ghi lại đây một trang sử
oai hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, cũng như quyết tâm của vị Tổng Tư Lệnh/QLVNCH.
Dù hoàn cảnh quá ư nghiệt ngả (vừa phải chiến đấu với quân miền Bắc, lại phải chống với Trung Cộng, đã bị
“đồng minh “Hoa Kỳ lại ngăn trở. ), V.N.C.H vẫn cương quyết
chống trả. Ngày 18/1, T.T Thiệu đã bay ra Đà Nẳng,lấy giấy viết ra chỉ thị thẳng
cho Phó Đề Đốc Hồ văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng I duyên hải.Chỉ thị ghi
như sau: “ thứ nhứt là tìm đủ mọi cách ôn hoà
mời các chiến hạm của Trung Cộng ra khỏi lảnh thồ VNCH,thứ hai nếu họ không thi
hành thì được nổ súng cảnh cáo trước mủi các chiến hạm nầy và nếu họ vẫn ngoan
cố thì toàn quyền xữ dụng vũ khí để bảo vệ sự toàn vẹn lảnh thổ VNCH”. Viết xong, T.T Thiệu cất giọng: “anh Thoại đến
đây và đọc trước mặt tôi, có gì không rõ ràng thì cho tôi biết ngay từ bây giờ”.
Cũng được biết, khi chuẩn bị đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Cộng đã
chuẩn bị 40 chiến hạm tại Hải Nam sẵn sàng để ứng chiến/.
Hình 4 chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà.
Bên góc trên trái, là HQ 10, do trung tá Nguỵ văn
Thà
làm Hạm Trưởng.
Một sự kiện đáng buồn là trong khoản thơì gian nầy,
hạm đội của Hoa Kỳ lảng vảng gần đấy,nhưng không cứu vớt những chiến sĩ hải quân
VNCH, vì bản hiệp định Paris 1973 đã trói buộc ,và chánh thức Hoa Kỳ đã giải kết,
không còn trách nhiệm gì với “bạn Đồng Minh”. Tuy nhiên nếu không lầm thì theo
qui ước quốc tế, gặp phải người mắc nạn trên biển, có phải tiếp cứu???.
Bốn
mươi ba năm qua, vào ngày 19/1/1974. . . và nay ngày 19/1 sắp đến, xin hãy một
phút lắng lòng nhớ về vùng đất Trảng Bàng, nơi có Tha La Xóm Đạo, sanh quán của
vị anh hùng cố Trung Tá Nguỵ văn Thà, Hạm Trưởng HQ 10. Chàng học trò của trường
tiểu học Trảng Bàng năm nao, bên bờ sông Vàm Cỏ, đã cùng 72 chiến sĩ hải
quân nằm xuống trong cuộc chiến bảo vệ
quần đảo Hoàng Sa.Nhớ về chuyện xưa, chúng ta cũng không được phép quên ,mà hãy
nhớ và nhớ nói lại cùng con cháu : “Hoàng Sa là của Việt Nam,từ
hàng nhiều trăm năm.Cụ thể,ngay từ thế kỷ 15,Việt Nam đã khai thác tài nguyên,
thụ đắc lâu dài bằng phương pháp hoà bình với cơ quan hành chánh quản trị đúng
theo công pháp và hoàn toàn không dùng vũ lực quân sự chiếm cứ từ của một quốc
gia nào.Năm 1974, quân Trung Cộng đã đánh chiếm, dùng vũ lực xâm lăng là không
có gí trị về công pháp quốc tế”.
Một mùa Xuân lại về với quê nhà, chúng ta vẫn mãi còn xa xôi. Nhớ lắm , mà cũng thật buồn thay,vì:
Quê
nhà tôi ơi, muôn trùng vời vợi
Một
ngày về, nào ai đợi được đâu
Bốn
mấy năm rồi, thật đã quá lâu
Và
phải đợi đến ngày nào đây nữa. . . H.Việt
(Tài liệu tổng hợp, có tham khảo trang www.myfastforum.org , www.chimviet.freefr/truyenky
www.wikipedia/wiki , www.vnexpress.net , www.doisongphapluat.com . . .).
(Bài viết nầy chúng tôi
trích từ trong quyển sách của chúng tôi, được hình thành từ vài ba
năm trước đây, nay nhân ngày kỷ niệm xin lại được kính đến quý đồng hương, do vậy
không cập nhựt tư liệu đầy đủ hơn (nếu có) và cũng không ghi đầy đủ phần tài liệu
tham khảo. Phần trình bày trên, ngắn gọn xem như một vài phút hoài niệm(Chi tiết hải chiến Hoàng Sa khá nhiều, chúng tôi
không ghi ra )Về trận chiến vệ quốc của chúng ta, sẽ xin
trong một tài liệu tương đối đầy đủ hơn .Kính mong vui lòng thông cảm, nếu có
những gì sơ sót
Hoài Việt/T.A.N-.Cựu
SV/QGHC/khoá 14).