Hoài
Việt
Quê tôi thuộc vùng sông Hậu, tại một tỉnh hiện hữu sự chung sống hài hoà, giữa người Việt cùng khoản 25% người gốc Cam Bốt và 5%người gốc Hoa. Đó là tỉnh Sóc Trăng, cũng như Trà Vinh ,xưa vài trăm năm đã có một số rất ít người Cam Bốt sinh sống. Dấu vết minh chứng sự hiện diện của họ là các ngôi chùa và cây thốt nốt. Người Cam Bốt hầu hết theo đạo Phật tiểu thừa, thường mỗi “sóc”của họ luôn hiện diện một ngôi chùa, là nơi hành lễ, cúng Phật, và cũng là nơi “gởi tài sản” dành cho kiếp sau. Và giống cây thốt nốt đuợc trồng trong sóc, trái ngọt như nước dừa dùng giải khát và nấu thành đường thốt nốt có mùi đặc trưng cũng là đặc sản của người gốc Miên (sẽ có dịp trình bày chi tiết). Như tại Trà Vinh, theo thống kê có tất cả khoản 300 ngôi chùa lớn nhỏ,và quê tôi Sóc Trăng cũng có khoản 100 ngôi chùa Miên ... Tôi được sinh ra tại Quận Long Phú ,”long” là hưng thịnh và “phú” là giàu có. Cũng có giả thiết khác,vì khoản trên hai thế kỷ trước, vào thời bôn ba tìm đường khôi phục nghiệp chúa, vì phải lẩn tránh sự truy sát của phe Nguyễn Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh đã “bôn tập”đến đây và được điạ phương che chở. Đồng thời,trong lúc tạm cư tại một cù lao, cũng thuộc L.P, chúa đã ban ơn “mây mưa”(chơ không phải mưa mốc”) cho một thôn nữ xinh đẹp nào đó mang tên “Huỳnh Dung”, à chúa đã ban cho địa phương được dùng chữ “long” đặt tên điạ phương là Long Phú, riêng cái cù lao nơi sinh quán của cô thôn nữ ,được vinh hạnh mang tên “Dung”,tức cù lao Dung. Cũng có một thuyết khác về cái tên cù lao Dung, nhưng thôi cứ tạm nghĩ như vậy cho đời đẹp thêm. Nghĩ thiệt “làm vua chúa” sướng quá, đi đâu cũng được kẻ hầu ngượi hạ,được “đủ thứ”. . .Riêng phần mình, cũng sung sướng được dựa hơi vua, vì hơn 70 năm trước cũng đã từng chạy loạn và “lánh nạn” tại nơi mà trên hai trăm mấy chục năm, vua Gia Long đã từng ... Sau đó, tôi trở về sống lại nơi được sinh ra, chuyện đã hơn 70 năm rồi, sao tôi vẫn nhớ như mới hôm qua. Lúc nầy, gia đình cũng tạm đủ sống, riêng tôi trải qua một thời tiểu học với đầy ấp kỷ niệm, với những “quốc văn giáo khoa thư”. Nay ngồi nhớ lại, biết bao nhiêu chuyện ngày xưa. Tôi nhớ ngôi nhà lá ba gian, trong đó một gian làm bồ lúa,mảnh sân trước khá rộng, sáng ra, hàng chục gà vịt đủ cở tranh nhau mổ lấy mổ để những nắm lúa vừa vải ra. Trông bọn gà vịt thấy mà thương, vui vẻ hoà đồng,chỉ riêng chú gà trống,miệng luôn kêu vừa mổ vừa nhìn mục tiêu là các mụ gà mái, xem mụ nào cái... đít(xin lỗi) cái đuôi hơi xệ xệ là đang thời kỳ... mống chuồng.Tôi cũng còn nhớ rõ, mỗi lần “ấy” xong, chàng gà trống cao cổ gáy”ò ó o. ò. .o . . o . .o. .o” được ông nội tôi “phiên dịch” ra là “đời chỉ có thế mà thôi. . . ”. Và tôi cũng nhớ khoảnh vườn nhỏ trồng rau, với hàng rào nơi những dây đậu rồng, đậu ván, bầu mướp xanh mướt tranh nhau bỏ vòi. Nhớ cả con sông trước nhà lúc khoản mười tuổi đã biết dùng dây câu gồm hơn chục lưỡi ném ra giữa sông, mỗi lần “thăm” dính năm ba con cá út là thường, có hôm cả những con cá ba sa nặng hơn ký. Thông thường thì ngồi câu cá chốt và lòng tong, câu dính mệt nghĩ, nhưng chỉ dành cho các gà vịt, vì người thân tôi không quỡn làm các thứ lòng tong lục chốt đó. Và một lý do khác, vào thời nầy tôm cá ê hề,không phải ăn những con cá nhỏ mất công. Nhớ, nhớ nhiều lắm, càng lớn tuổi càng nhớ chuyện ngày xưa, nhớ đến ray rứt thèm khát, ước mơ một ngày sống lại. Nhưng có lẽ, hình ảnh tôi nhớ nhiều nhứt là mái trường ngày xưa, nơi đã trải qua thời tiểu học với đầy ắp kỷ niệm. Đặc biệt, do hoàn cảnh riêng,tôi trải qua hai ba năm đầu tiểu học tại tỉnh. Trường học nằm ngay góc đường về Bải Xào. Ngôi trường sau nầy đưọc dùng bối cảnh cho hai bài hát của nhạc sĩ Thanh Sơn là “Nổi Buồn Hoa Phượng” và “Lưu Bút Ngày Xanh”. Hình ảnh thật khó quên, với những cây phượng hoa màu đỏ thắm, khiến tôi khó kềm nước mắt.Và cũng vì vậy tôi đã cố tập hát hai bài nầy, đến độ nhuần nhuyễn và ca “nghe cũng tạm”. . . Sau đó, đến lớp nhì nhứt lại về quê Quận L.P. Từ nhà đi vài trăm thước đã tới trường học, nhưng thường học trò chúng tôi đến trước cả giờ để chơi với bạn.Những hôm lỡ quên, nghe tiếng trống tựu trường vang vọng... ôm cặp chạy một mạch cũng còn kịp. Tôi nhớ mái trường xua, nhớ cả những bài hát, mà một trong những bài thật dễ thương, là bản “ Trường Làng Tôi” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu sáng tác năm 1948.
.
. . Trường làng tôi,hai gian lá đơn sơ
Che
trên miếng sân vuông mơ màng
Trường làng tôi, không giây phút tôi quên
Dù cách xa muôn trùng , trường ơi. . .
Thương
quá, quê nghèo của ông nhạc sĩ, nghe đâu sau đó ông ấy đã đi theo “kháng chiến”
và rồi cũng “than ôi”, chuyện đời không như ông nghĩ. Ông đã lầm,thiệt đáng tiếc
và tôi nghiệp cho ông ,cho cả hàng bao muôn ngàn người đã lầm như ông.Riêng
ngôi trường của tôi to lớn hơn nhiều, không phải hai gian lá đơn sơ, mà là một
dảy nhà gạch,lợp ngói đỏ chót. Trước trường
khoản sân rộng, với nhiều cây còng khá to. Suy nghiệm ra, chắc đây là nơi đã có
ngôi trường củ, vào khoản 1950, thời chánh phủ Quốc Gia Việt Nam đã xây lại
ngôi trường mới. Thời nầy, học sinh đi học
ngày 2 buổi, mỗi sáng tất cả học sinh tề tưụ trước sân long trọng làm lễ chào cờ,
được nhìn lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ. Ngày nào cũng vậy, sau lễ chào cờ,ông
hiệu trưởng ban hiểu thị,nhắc nhở bao điều, xong học trò xếp hàng tuần tự vô lớp
dưới “quyền điều khiển” cuả trưởng lớp,thầy hay cô chỉ đứng quan sát. Cứ lập lại
mỗi ngày,có lẽ cũng chán, nhưng hình thức “nhồi sọ” quả có nhiều điều bổ ích. Suốt cả khoản đời thơ ấu
của tôi vào thập niên 1950 toàn đuợc xã hội, gia đình và trường học “nhồi vào
những điều hay lẻ phải, giúp học sinh nhớ
đời đời. . .”. Tôi nhớ như in, lá cờ vàng
ba sọc đỏ luôn tung bay trước gió,như tung bay trong tâm tư mỗi học sinh chúng
tôi. Vào thời kỳ nầy, lá cờ vàng ba sọc
là của “Quốc Gia Việt Nam” xuất hiện khắp Nam, Trung, Bắc( từ ải Nam Quan đến mủi
Cà Mau, ngoại trừ những vùng “chưa đươc giải phóng khỏi “giải phóng”). Đây là
lá cờ chính thống của Việt Nam khi Pháp trả độc lập, với đức Quốc Trưởng là Bảo
Đại và nội các lần lượt do Thủ Tướng Bửu Lộc,Trần văn Hữu,Nguyễn văn Tâm ... điều
hành... Do vậy, cờ vàng ba sọc đỏ là quốc
kỳ của Việt Nam, không phải của riêng Việt
Nam Cộng Hoà sau đó ,(mà khi VNCH bị giải thể, cờ vàng phải mất theo.). Hoàn
toàn không phải như vậy. Cũng nhân đây, xin ghi lại một sự kiện vô cùng quan trọng.Vào
tháng 9/1951, Thủ Tướng của “Quốc Gia Việt Nam” là ông Trần văn Hữu đã long trọng
tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong hội nghị quốc
tế tại San Francisco (Hoa Kỳ), mà không gặp bất cứ sự phản bác nào của 51 quốc
gia tham dự, có cả đại diện của Liên Sô(xem như thay mặt cho Trung Hoa). Đây là
một sự kiện vô cùng quan trọng,thế mà “họ” lặng im, vì rõ ràng Hoàng và Trưòng
Sa là của Việt Nam tự bao đời. Họ hoàn toàn không có một lý lẽ gì để “mở mồm”.
Ngày
xưa, vào khoản 1950, chiến tranh chưa dứt hẳn, nhưng những tiếng súng cắc bùm chỉ
xa xa đâu đó. Tại miền Nam nói chung,và riêng tại Quận L.P (tỉnh SócTrăng) của
tôi thật khá thanh bình, đời sống người dân tương đối yên ổn, ấm no, mỗi năm chỉ
làm một mùa lúa nhưng không thấy ai bị thiếu ăn. Lúa gạo không thiếu, tôm cá
cũng dư thừa. Sông rạch vùng quê,đến mùa nước xuống, nước trên ruộng đổ ra sông,
cá ục như cơm sôi. Về cá biển cũng thật dồi dào, gia đình có thể mua nguyên con
các loại cá như thiều, rún và nhứt là cá cháy, nghe đâu từ vùng Đại Ngải đem về. Cá cháy mình dẹp dài trung bình khoản 5 tấc, thật ngọt thịt ngọt nước vô cùng. Có
lẽ thời nầy đất rộng, người thưa, cuộc sống thật vô cùng thoải mái, dễ chịu ấm no. (Vào khoản 1960, tự nhiên giống cá nầy không
còn nữa).Bà con lối xóm trong Quận sống chan hoà, ai ai cũng quen mặt biết tên,
kịp đến khoản 1956, xuất hiện “những người nói tiếng kỳ lạ”, cả chiếc ghe họ
cũng lạ nữa, hơi dài đòn hơn,cùng lối người chèo nằm ngửa dùng 2 chân chèo .Đây
là hình ảnh chưa bao giờ có tại thôn quê miền Nam.Cô bác trong làng xóm quê tôi
nói : “họ không phải người Việt mình!”. Thỉnh thoảng những người nầy xuất hiện,
xóm làng tôi từ từ biết ra, đó là “bắc kỳ di cư”. Thì cũng là đồng bào của
mình, nhưng vào thời đó còn xa lạ. Họ sống trên ghe, chài cá mang ra chợ bán, rồi
đi theo xóm, có người vào xin mớ củi, thường thì vui vẻ cho. Tôi còn nhớ, cũng
có mấy lần họ cứ “tự nhiên” vào trong sân quơ lấy củi một cách thoãi mái, la
thì bỏ đi, cũng có khi nói ngang là “của rơi chúng ông nhặt”.Rơi thế nào được,
củi phơi trong sân... (Xin lỗi, tác giả
còn nhớ rất rõ, chuyện có sao giờ kể lại, chớ “bắc kỳ di cư 54” là số một,tất cả
đều là đồng bào).
Chuyện ngày xưa,kể chút cho
vui. Sự việc đáng nhớ và muốn ghi lại trong đây là việc học hành,là “tình
nghiã giáo khoa thư”trong thế hệ trẻ chúng tôi trong tất cả xã hội miền Nam thời
ấy. Xã hội trong đó mọi người sống chan hoà, đối xử cùng nhau đượm tình làng
nghĩa xóm. Hầu như không xảy ra những vụ đại loại như “ rót rượu không đều bị
đâm chết”, “ trộm chó bị vây bắt ,đánh chết, đốt xác cùng chiếc xe, cả nhóm người
thản nhiên đứng xem”, “hai nhóm nữ sinh đánh nhau, xé áo, học sinh nam dùng điện
thọai di động thản nhiên quay phim”. . .
Thời đó, chánh quyền quốc gia Việt Nam vừa thu hồi độc lập, đã ra sức kiến
thiết xây dựng, cụ thể như ngôi trường tiểu học quê tôi được xây mới. Việc học
hành được tổ chức thật vô cùng chu đáo, tốt đẹp, nghiêm chỉnh. Về cấp học chia
ra: tiểu, trung và đại học. May mắn,tác giả có cơ hội sống thực, xin ghi lại những
đôi nét căn bản như sau:
Ở điạ phương nhỏ, chỉ có bậc
tiểu học, lại chia ra 2 cấp: cấp sơ học gồm lớp “đồng ấu”(cours
enfantin) hay lớp năm, lớp dự bị(cours préparatoire) hay lớp tư và
lớp “sơ đẳng(cours élémentaire) hay lớp ba.Cấp tiểu học gồm lớp
nhì một năm (cours moyen première anneé), lớp nhì năm thứ hai (cours
élémentaire deusième année) và “lớp
nhứt”(cours supérieur). Học xong lớp ba, phải thi tuyển để vào lớp nhì. .
. Cuối lớp nhứt, sẽ thi lấy bằng”sơ tiểu tiếng Pháp”. Thờì nầy, điạ phương của
tôi cũng như đa số các nơi khác, thường mỗi Quận chỉ có một trường tiểu học,
các làng có thể có trường sơ cấp (chỉ dạy đến lớp ba), thông thường tại các thôn
ấp là lớp đồng ấu.
Tại các tỉnh, thường chỉ có
một trường tiểu học lớn (có nhiều lớp nhứt). . Đại khái là vậy, nhưng đến
khoản năm 1955 đã có thay đổi, cũng tùy thuộc địa phương phần nào, như có thêm
lớp “tiếp liên” chẳng hạn.Và từ năm 1956, lại
thay đổi, học sinh giỏi cấp tiểu học, căn cứ vào học bạ, đủ điểm sẽ đươc
cấp chứng chỉ tiểu học và được lên lớp đệ thất (trung học) Tuy nhiên, chánh quyền vẫn tổ chức thi lấy
văn bằng tiểu học, để ai có nhu cầu, với bằng tiểu học có thể xin đi làm việc
“chữ nghiã” như thơ ký, cảnh sát. . .Vào thời nầy, trình độ của người có bằng
tiểu học “cứng” lắm, không phải như nửa thế kỷ sau đó.Vào thờì còn đi học, là học
sinh chỉ biết mang máng, sau tôi có tìm
hiểu thêm, nhưng không thể dài dòng chi tiết vì bài viêt có hạn định, không phải
là một nghiên cứu toàn bộ QVGKT.. Đôi điều cần ghi ra đây là: thứ nhứt cơ chế
giáo dục thời đó với nội dung đầy tính sư phạm, đào tạo cho con người biết điều
hay lẽ phải, sống đạo đức, thương yêu đồng loại và nhứt là thương yêu quê hương
.Thứ hai, chính nền giáo dục nầy là căn bản, nền tảng tiếp nối của giáo dục quốc
gia Việt Nam Cộng Hoà sau đó, với 3 đặc tính
dân tộc, nhân bản, khai phóng.Thứ ba, mặc dù không có qui định nào bắt buộc,
nhưng phụ huynh luôn muốn cho con mình “biết cái chữ”,đã lo cho con được đi học. Điều quan trọng nhứt cần ghi ra đây là, chương trình
giáo dục cấp tiểu học thật khá đầy đủ, nhằm đào tạo học sinh với những tri thức
căn bản và đạo đức căn bản giá trị muôn đời.
Việc đi học hoàn toàn không có khó khăn
chi, hoàn toàn không phải tốn tiền học phí, cũng không có bất cứ loại “phí” nào.
Bậc tiểu học đã không đóng tiền, cả trên bậc trung học và đại học, đều như
thế (ngoàị trừ trên đại học, có khi phải đóng lệ phí ghi danh với số
tiền rất nhỏ). Được biết, lệ phí ghi danh một phần cũng để “giới hạn”những
ai đó “ghi mà không học”, vì lúc nầy ngoại trừ một số đại học như: Y,Dược, Kỷ Thuật
Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh, Sư Phạm,Kiến Trúc phải thi tuyển khá cam go, các
đại học khác như Khoa Học,Văn Khoa,Luật Khoa thì... tự do ghi danh.(Xin đừng nghĩ tự do ghi danh là kém, không bằng phải qua kỳ thi tuyển).Đây
nói về đại học công, về sau có thêm các đại học tư phải đóng học phí như: Vạn Hạnh,Minh
Đức, Chánh Trị Kinh Doanh,Hoà Hão, Cao Đài. Như cá nhân người viết, xong tiểu học,
tiếp tục lên tỉnh học lớp đệ thất “tư thục”(vì bấy giờ tỉnh S.T chưa mở trường trung học công lập). Học
tư thục phải đóng tiền,và không phải tư thục là “kém” hơn công lập vì rất nhiều
tư thục qui mô, có tiếng tâm. Hơn thế nữa, thời nầy, giáo dục không phải là “thị
trường buôn bán chữ nghiã”, nhưng nếu trường nào “dạy dở” sẽ khó tồn tại. Xin
không dùng chữ “cạnh tranh”,nhưng trong bất cứ “sân chơi” nào đều phải mặc
nhiên chấp nhận qui luật đào thải. Chúng ta đừng quên, tại Hoa Kỳ, đại học
Harvard nổi tiếng số một, điều kiện vào học thật khó và tiền học phí cũng khá
cao. Lý do, vì đây là một đại học tư.
Trở lại chuyện học hành của
tuổi trẻ chúng tôi thời trước sau thập niên 1950, ở cấp tiểu học, mà nội dung
chương trình học hầu như gói gọn vào “quốc văn giáo khoa thư”. Có lẽ một số quí
vị trên dưới khoản 70 hoặc những bạn trẻ thế hệ hai, ba sẽ không bao giờ cảm nhận
được “quôc văn giáo khoa thư” là gì. Cũng như chúng tôi thời đó chỉ hiểu đại
khái mơ màng,thầy cô dạy gì thì mình cứ “cấm đầu cấm cổ” học,học và học. . .Và
về sau nầy, vì nhu cầu, tìm hiểu lại xem , thì đúng y chang , “giáo khoa thư” toàn dạy những điều tốt đẹp, đạo đức lễ nghĩa. Điều
đáng nêu ra, khi chúng tôi ra ngoài xã hội, lối sống và cách hành xử cũng gần
như “ y chang” những gì đã học trong “QVGKT”.
Nói hơi “thời sự” một chút, có thể xem đây như một “cẩm nang,bửu bối chân kinh” dành cho những
ai muốn tu luyện thành đạo sĩ hay kiếm sĩ.
Vì thời đó, ảnh hưởng tiếng Hán và Pháp còn nặng, phải xử dụng kiểu đặt
tên như thế nầy, “Quốc Văn Giáo Khoa
Thư” là “sách dạy học trò bằng chữ nước Việt”. Bộ sách do nhà cầm quyền
Pháp, nhưng trực tiếp là Nha Học Chánh Đông Pháp(Đông Dương thuộc Pháp), giao cho
các quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đổ Thận biên soạn. Bộ
sách gồm 3 quyển :
-quyển
dành cho lớp “đồng ấu” ,dạy về luân lý qua các bài tập đọc,tập viết.
-quyển
dành cho lớp “dự bị”
-quyển
dành cho lớp “sơ đẳng”
gồm các bài tập đọc với nội dung gồm: sử ký, điạ dư,cách trí(vạn vật),toán đố,vật lý, hóa học,
vệ sinh,học thuộc lòng,chánh tả,tập làm văn và trên hết là môn đức dục với số
giờ trung bình phải gấp đôi các môn học khác. Điều cần trang trọng ghi nhận
là sách do thực dân Pháp chủ trương, nhưng nội dung hàm chứa tính giáo dục sư phạm
rất cao, dạy làm con người tốt, hoàn toàn không đề cập về “chánh trị,hận thù”
Trong toàn bộ bài học thường ghi lại những câu ca dao tục ngữ,vệ sinh (lớp đồng
ấu), lịch sử, điạ dư, cảnh đất nước thanh bình,ấm no,hạnh phúc, nhứt là những bài
dạy về lễ nghiã, thờ cúng tổ tiên, bổn phận làm con, thưong kính vâng lời giúp đỡ
mẹ cha,thưong mến anh em đồng loại(lớp dự bị, sơ cấp). Tuyệt đối không có bài nào
nói về chiến tranh, giết bao nhiêu quân địch. Trong bộ sách nầy, bàng bạc khắp
các trang, là những câu ca dao tục ngữ, được học trò “thuộc lòng” đến nhuyễn nhừ
như. . cháo bào ngư!!!
Dưới đây là một số câu, trong ngàn câu tục ngữ mà cả đời, cả đến khi sắp . .về với
ông bà, cũng “không dễ nào quên”:
-Tiên
học lễ,hậu học văn
-Cá
không ăn muối cá ươn
Con
cải cha mẹ trăm đường con hư.
-Công
cha như núi Thái Sơn
Nghiã
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
-Anh
em như thể tay chân.
-Bầu
ơi thương lấy bí cùng
Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn.
-Con
ơi muốn nên thân người
Lắng
tai nghe lấy những lời mẹ cha.
-Cờ
bạc là bác thằng bần
-Nhứt
nghệ tinh,nhứt thân vinh. .
-Một
cây làm chẳng nên non.
Ba
cây chụm lại nên hòn nuí cao
Bài học nào cũng có hình ảnh
minh hoạ,giúp học sinh vui thích,ham học.
Về giáo dục, tổ chức hình thức
và nội dung thời Pháp thuộc, và kế tiếp thời “Quốc Gia Việt Nam” là tiền thân của
Việt Nam Cộng Hoà.(Dĩ nhiên, luôn có những sửa đổi, bổ cứu theo tình hình, và tính
chất “giáo khoa thư” vẫn còn đậm nét, ít ra tới thập niên 1960).Sách giáo khoa
không đề cập “chánh trị”, nhưng về lịch sử, từng bài ngắn gọn, thật sút tích
giúp học sinh biết căn bản những anh hùng liệt nữ đã anh dũng chống giặc ngoại
xâm:Hai Chị Em Bà Trưng, Bà Triệu Trinh Nương, Ông Ngô Quyền, Ông Trần Quốc Tuấn,
Ông Phan Thanh Giản. Ngoài ra, chúng tôi còn
được dạy vẽ,nhạc lý và cả nữ công gia chánh(cho học sinh nữ)
Trang Sách Tập Đọc “EmHọc Vần”
(- bản gốc, lớp Năm-thời VNCH- www.motgoctroi.com ).
Trận
Bach Đằng Giang
Để khái niệm cụ thể, có thể
ghi ra đây ,nôi dung quyển “giáo khoa lớp đồng ấu”(là lớp nhỏ nhứt). Quyển sách
gồm tất cả 55 bài , gồm những bài căn bản như sau: tôi đi học,yêu mến cha mẹ,
giúp đỡ cha mẹ, thân thể ngưòi ta, trưòng làng tôi, ăn uống có lễ phép, đứa trẻ
có lễ phép, gọi dạ bảo vâng, người học trò tốt,đi đâu phải thưa về phải
trình, thờ cúng tổ tiên, học trò đối với thầy, sớm tối thăm nom cha mẹ, anh em
như thể tay chân, chú bác cô dì, phải sạch sẽ, thờ cha kính mẹ, thương yêu kẻ
tôi tớ, đói cho sạch,rách cho thơm, cánh đồng quê nhà. . Trong số 55 bài, đã
có tất cả 14 bài về công ơn cha mẹ, tổ tiên bà con. . Xem như vậy, bài học
lễ nghiã luôn được đặt làm trọng tâm (www.ndclnh-mytho-usa.org/sach). Về trình độ học trò, ngay từ lớp đồng ấu đã biết
đọc viết trôi chảy, rồi lớp tư, để xong “lớp ba” phải qua kỳ thi vào “lớp nhì”
Tôi Đi Học
(Hình
in lại trong cuốn Quốc văn Giáo Khoa Thư-1939)
Lên lớp nhì,lớp nhứt, học trò bắt đầu làm quen với
khoa học căn bản , địa lý Việt Nam ,và cả một số nơi trên thế giới, biết một số
căn bản về bệnh tật. Thời đó, một học
sinh xong tiểu học thuộc nằm lòng sông
Củu Long dài bao nhiêu,bệnh đậu mùa là gì và nhứt là
biết căn bản lịch sử nước nhà, như đã nói trên.Học sinh chúng tôi cũng được dạy
những bài thơ ca tụng quê hương,những gương hy sinh vì đất nước qua bài hát “Bạch
Đằng Giang”, bài thơ “Chiến Sĩ Vô Danh”(của Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy).. . Học
trò phải học thuộc lòng, với “chút gì đó phấn chấn trong lòng”, thường khi trả
bài,đa số học trò phải cất giọng to vang đầy hùng khí. Học trò trả bài “nhừa nhựa’
hay nhỏ tiếng,thầy cô bắt làm lại,giọng phải to và hùng hồn, đôi khi còn phải
diển tả bằng tay như đang diển kịch. Chúng tôi,sau hơn 70 năm, vẫn nhớ vanh vách
bài “Bạch Đằng Giang, Hận Sông Gianh,Khoẻ Vì Nước và nhứt là bài thơ “Chiến Sĩ
Vô Danh” của thi sĩ Đằng Phương,mà sau nầy biết ông ấy là Thầy Nguyễn Ngọc Huy.Cá nhân chúng tôi mãi đến
nay vẫn còn nhớ,nhớ mãi. “tình nghiã
giáo khoa thư”, lòng thương kính tổ tiên ông bà cha mẹ, cùng nghiã thầy trò
cũng là quan trọng vô cùng.Thầy cô luôn thương yêu, tận tâm dạy dổ, xem học trò
như con em.Đáp lại, học trò vừa thương kính và cũng vừa . . sợ nữa Tôi còn nhớ
rõ như in, ở lớp năm, tư (lớp một,hai sau nầy), học sinh còn nhỏ,hầu như
thầy cô chỉ khuyên răn nhắc nhở, không dùng hình thức phạt hay đánh đòn. Nhưng
lên lớp ba, học sinh đã bắt đầu biết “nếm
mùi đời”, không thuộc bài, lầm lỗi như chơi
xấu , chửi lộn hay đánh bạn,hay không giữ vệ sinh , thường bị khẻ tay bằng thước hay bị nhéo lổ tai đau
điếng.Hình ảnh “nhéo lỗ tai” trông buồn cười vô cùng, thầy giáo dùng tay(y dài)
kéo lỗ tai( I ngắn), học trò bị đau phải nhón gót lên.Thường một hai ngày, học
sinh xếp hàng,đi ngang thầy hay cô, xoè hai bàn tay,nếu bị dơ hay móng tay dài sẽ
bị “ăn” một khẻ nên thân. Trả bài không thuộc, học sinh sẽ phải chép lại bài
vài chục hay cả trăm lần,nếu là câu ngắn. Chép ở nhà,hay ngày chúa nhựt phải
vào lớp ngồi chép bài,dưới sự giám sát của thầy cô (gọi tiếng Tây là”còng xin”).Thời
nầy , hầu như bất cứ môn nào cũng phải học thuộc lòng . Mỗi đầu giờ, thầy cô lật
sổ kêu tên, cả lớp im lặng như tờ, trò nào được kêu tên, thường đứng lên bảng,khoanh
tay trả bài. Nhờ vậy mà nội dung bài học như in sâu vào đầu, thuộc nằm lòng,
khó quên được. Cũng có những học trò nghịch ngợm, khó dạy
hay không chịu học bài, khuyên răn mà không nghe lời, không ít trường hợp thầy
cô áp dụng “biện pháp mạnh”, từ dùng thước kẻ khẻ vào bàn tay, hoặc dùng roi
mây(bằng ngón tay nhỏ khoản như cây viết chì và dài khoản một thước) đét vô . .
mông đít đến nổi dấu đỏ chót. Tôi còn nhớ
rất rõ, hình như rất ít các cô học trò gái bị ăn roi mây.Chắc vì đa số các trò
nữ siêng học,hay các thầy cũng không nỡ.(Trời tạo ra phái nữ, cái cặp mông của
các trò khoản trên 10 tuổi đã nhu nhú,đâu phải để ăn roi mây hả trời. ) Là
một học sinh,không thông minh nhưng siêng học, hầu như suốt cả hai năm cuối bậc
tiểu học, tôi không bị “ăn” roi mây lần nào. Xin đừng tưởng là thầy cô quá nhẫn
tâm, mà cũng vì muốn học sinh nên người.
Hình thức dùng roi mây thật không nên,nhưng hầu như thời đó không một ai
phản đối, vì tinh thần nể trọng thầy cô,Thật vậy, thời đó vị trí xã hội thầy cô
rất cao, đi đâu cũng được cha mẹ học trò trọng vọng,chào kính. Bậc cha mẹ học
sinh là vậy, học trò càng kính trọng thầy cô, khi tiếp xúc luôn khoanh tay cuối đầu. . . Hồi xưa đó, thời
chúng tôi giềng mối”tam cương,ngũ thường” chỉ còn “hai cương”,tức “sư, phụ”, vì
vua Bảo Đại không còn làm vua, chỉ là Quốc Trưởng, nhưng nghiã thấy trò còn “nặng”
lắm. Câu ca dao”công cha,nghiã mẹ,ơn thầy” luôn được truyền tụng , trong dịp Lễ
Tết, học trò phải nhớ” mồng một nhà cha,mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy”. Ngày
mồng ba, học trò luôn nhớ ơn, dù đã thành n gười lớn, có gia đình cũng nhớ thầy
ngày xưa, mang quà đến mừng tuổi.Quà không cần phải giá trị quí giá chi, thường
là gói trà, bánh mứt cùng đôi đòn bánh tét. Hầu như đâu đâu cũng vậy, và chưa
bao giờ xảy ra những chuyện học trò hổn hào, đừng nói chuyện học trò đánh thầy.
Trong tình thầy trò, hầu như không bao giờ bị chi phối vì vật chất bạc tiền, hoàn
tòan không có chuyện “gián tiếp hay trực tiếp’ bắt học trò mình phải “học thêm”
lớp ngoài giờ do chính mình mở ra. Còn nhớ, năm 1955, học trò lớp nhứt chúng
tôi lên tỉnh thi tiểu học, quả là một biến cố quan trọng, cả làng cả xóm đều biết.
Năm lớp nhứt, học sinh phải thật chăm chỉ, học hành đến nơi đến chốn và thầy chỉ dạy chi li từng
chút,nhứt là cách giải những bài toán đố mà tôi còn nhớ mãi như “ hai vòi lớn nhỏ mở ra trước sau”. . Vậy mà chưa
yên tâm, để giúp học trò, thầy đã mở lớp học thêm vào buổi tối hoàn toàn không “ăn
tiền”. Trong dịp nầy, nhiều học trò chúng tôi được cha mẹ mua cho cái đèn pin để
soi đường. Thiệt là mừng hết biết,và cũng lạ nữa. Tôi mân mê cây đèn, thử rọi
lên ngọn dừa thấy sáng trưng,rồi lại rọi lên trời thầm nghĩ “sáng tới trời, chắc
vì xa quá không thấy” , nay ngồi nhớ lại thì thiệt là khù khờ ngu ngơ. Học trò
chúng tôi thời đó, bạn bè thường chung lớp khoản năm năm, mỗi dịp hè xa nhau,
làm sao quên được, học trò lớp nhì,nhứt chuẩn bị quyển lưu bút ngày xanh thật đẹp, tô màu,vẽ hình
bông hoa, chim cò,dường như có hình trái tim nhưng không có mủi tên xuyên qua rỉ
máu. Một năm học kết thúc, đáng nhớ làm sao buổi lễ phát thưởng. Trong năm học,
mỗi tuần đều có cộng điểm và mỗi tháng tổng kết,danh sách học sinh với thứ hạng
danh dự được ghi trên bảng treo lên tường. Thường học sinh hạng nhứt nhì ba được
xướng tên lên nhận bằng danh dự,thật . . . danh dự vô cùng.Càng “ngon lành” hơn,
mỗi sáng chào cờ đầu tháng, học sinh hạng danh dự còn được xướng danh, lên đứng
xếp hàng đón nhận bằng danh dự do thầy hiệu trưởng và thầy cô ban cho,thiệt
không gì vui sướng hơn.Cá nhân chúng tôi khá siêng học, luôn đứng nhứt nhì, vui
mừng lắm và còn được thầy tin tưởng giao cho ôm sổ cộng điểm về nhà . Trên tường,
trước 1954, cao nhứt là hình” đức Quốc Trưởng
Bảo Đại (và sau đó là hình Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm), các bảng khẩu hiệu như “Tiên Học Lễ,Hậu Học Văn”,”Uống Nước Nhớ Nguồn”.
. được trang trọng treo trên bốn bức tường của lớp.Mỗi mùa bãi trường, lễ phát
thưởng luôn được tổ chức thật qui mô, luôn có sân khấu ,học trò và thầy cô chuẩn
bị cả tháng, còn phải tập các vở kịch nữa. Buổi lễ phát thưởng trường Quận tôi
lúc đó, thường luôn được ngài Quận Trưởng chủ tọa (thời đó, Ông Quận Trưởng lớn lắm, luôn đưọc trang trọng gọi
cung kính là”ngài”),
cùng sự tham dự các viên chức, các vi bô lão và phụ huynh học sinh.Trong lễ phát
thưởng, ngài chủ toạ luôn ban những huấn từ ,trông thật oai phong. Ngày phát thưởng
thật không khác gì ngày lễ hội,học trò được lảnh thưởng với những gói thật to,
gồm cặp da, tư điển, sách vở. . .giữa những tràng pháo tay to vang.Chính hình
thức long trọng nầy, đã khuyến khích học
trò cố gắng. Hình ảnh và cũng là niềm mơ
ước cháy bổng là ngài Quận Trưởng.(Ông ấy”lớn” quá, tôi mơ sẽ có ngày. . . và
may mắn ,như một phép lạ,sau nầy cá nhân tôi cũng có dịp chủ toạ những buổi lễ
như vậy,và cũng ban huấn từ ngon lành lắm”). Tôi nhờ siêng học, năm nào cũng được những phần
thưởng ,ông bà ba má vui mừng. Tôi cũng còn nhớ các bạn bè, có những bạn học kém
đã quá buồn , khóc rấm rứt, nhưng rồi cũng qua đi. Xong lễ chúng tôi lại cùng nhau
tay trong tay, líu lo trò truyện ,và rồi những cuốn lưu bút được trao nhau. Đời
học sinh nhiều kỷ niệm nhứt phải là thời tiểu học, mà ông nhạc sĩ Thanh Sơn của quê tôi Sóc Trăng sáng tác những bài hát
đã khiến hàng triệu học trò bùi nguì nhớ mùa hoa phượng, nhớ quyển lưu bút ngày
xanh.
Ôi,những
quyển lưu bút ngày xanh của chúng tôi, tuổi xuân xanh của chúng tôi, cuả hàng
triệu người đã bị ngọn lửa chiến tranh hận thù thiêu rụi sau đó. Tôi vẫn mãi nhớ
những bằng danh dự, những quyển lưu bút, những cuốn tập học trò cùng bài vở mực
tím mà tôi giữ gìn trân quí như báu vật trong 20 năm, đã bị ngọn lửa 1975 đốt
cháy không tiếc thương. Đây không phải nghiã bóng,mà là sự thật.Những quyển lưu
bút,những bằng danh dự tôi luôn giữ gìn cẩn thận như báu vật trong hơn 20 năm,
vào ngày 1 tháng 5 “năm ấy”, phần gia đình mang ra đốt,đốt cả sách báo vì quá
lo sợ tội “chứa chấp tài liệu phản động của Mỹ ngụy”. Phần khác, ngay sau ngày ấy, người
ta đã “ập” vào nhà,lục lọi càng quét, truy lùng. . Ngọn lửa 1975 đồng thời đã tạo
cơn lốc xoáy điên cuồng thổi tôi và hàng triệu đồng bào tung bay vào những khu
rừng, trại cải tạo, khu kinh tế mới,đại dương đầy sóng dữ, hải tặc.
Thêm một chút”Nhớ. .”. Sau khi , tạm rời quê,lên tỉnh học trung
học, rồi lên chốn “đô thành”, đôi lần về thăm , cũng chưa đổi thay nhiều .Sau
ngày “tháng tư năm ấy”, khoản mười năm sau
, tính ra đã trên 30 năm,về tìm lại mái trường xưa, giờ đây đã thay đổi hầu như
hoàn toàn. Nghe nói , ngày nay câu ca dao”Tiên Học Lễ,Hậu Học Văn” đã không còn
treo trên tường nữa. . . Đúng thật rồi,
và còn biết bao nhiêu “điều nghe nói”, đã là sự thật, sự thật mà bình thường
không dám tin. Sau trên ba chục năm , về
lại quê xưa, khá nhiều đổi thay, nhiều nhà cửa được xây thêm,nhứt là khu gần Văn
phòng “huyện”.Tôi nhớ rất rõ,ngôi trưòng không xa văn phòng lắm, mà sao hơi khó
tìm, nhưng cuối cùng đây rồi, ba mươi
năm,là nửa đời người, trường tôi ngày xưa
với mái ngói đỏ như son môi cô thiếu nữ,nay đã xám xịt, đầy những rêu
phong.Hơi khó tìm vì ngày xưa ấy, trước
trường là khoản sân rộng, nhiều cây còng khá to,nay đã không còn nữa. Người ta đã đốn, lấy mặt bằng làm mặt tiền xây
những căn nhà ngói của ai đó, ai đó thì ai cũng biết là ai rồi đó! Ai trồng
khoai đất nầy???. Vậy nên chỉ còn con đường như hẻm nhỏ khoản vài mét, vào sâu hơn
20 mét . . là ngôi trường xưa. Có điều quá ư đối nghịch,những căn nhà”của ai đó”
trông khang trang sáng sủa, đố nghịch với ngôi trưòng xưa của tôi trông ọp ẹp làm sao.Về “Thăm Lại Trưòng Xưa”, tôi đã thấy:
Nằm
khuất sau nhà ai
Trường
tôi vẫn còn đây
Bấy
nhiêu năm xa cách
Ôi,
quá nhiều đổi thay
Tôi
nhớ lại ngày xưa
Mái
truờng ngói màu đỏ
Trên
đường đi đến lớp
Nhìn
thấy rõ từ xa
Nhớ
hàng còng xanh tươi
Che
sân trường mát rượi
Cho
chúng tôi thỏa thích
Nô
đùa giờ ra chơi
Nay
hết rồi còn đâu
Mái
trưòng phủ màu rêu
Và
cong hoằng hẳn xuống
Vì
chịu đựng quá lâu
Vách
tưòng màu nhợt nhạt
Chấp
vá bao lổ hang
Từng
mảng vôi vụn vở
Cào
xé bởi thời gian
Tôi
bàng hoàng nhìn lên
Côt
cờ như ngả nghiêng
Màu
cờ vàng đã mất
Theo
vận nước truân chuyên
Lòng
miên man hồi tưởng
Bè
bạn học chung trường
Nay,
ai còn ai mất
Ai lưu lạc tha phương
Ông
hiệu trưởng ,cô thầy
Như
ẩn hiện đâu đây
Ôi,
thời gian tàn nhẫn
Đôi
mắt buồn, ai hay.
Đôi
mắt của tôi,và chắc hẳn cũng của quí vị
hom hem.Vậy cũng là điều hay, sẽ giúp mình nhìn về quá khứ mờ mờ ảo ảo.
Chuyện kể ghi lại một quá khứ gần bảy mươi năm, chắc phải có nhiều thiếu sót và
lầm lẫn,xin hãy vui vẻ thứ tha thông cảm.Hoài Việt chỉ mong,những dòng bút ký
dung dị nầy, cùng đưa quí vị về một vùng ký ức xa xôi nào đó.Quí vị ơi,
Quê
nhà chưa thể về thăm
Thôi
,ta hãy tạm đi tìm trong mơ.
Ta mơ thấy lại
lá cờ
Mãi
in đậm nét từng giờ trong tim.
Thiệt
lòng, không phải sính “làm thơ”,nhưng khi xúc cảm tràn dâng,tự nhiên “ ý thơ” lại
dâng tràn.Cũng là cái nghiệp.
Hoài
Việt/Trương An Ninh
(Bài
viết từ vài năm trước.Tác giả chủ yếu ghi lại những dòng ký ức,len vào là những
gì nhớ về QVGKT. Đây chỉ là đôi nét căn bản,không phải là một sưu tập
chuyên biệt. Và cũng vì vậy, đây chỉ là đôi nét căn bản và không khỏi mắc phải vài
sai lạc.Rất mong được sự cảm thông của
quý vị)