Truyện
ngắn
Nguyễn Văn Sâm
Một
sớm nọ tôi có ý muốn viếng lại cái chợ Cầu Ông Lãnh, nơi mình từng sống ba năm
Tiểu học và những năm Trung học để tìm về
một chút quá khứ tuổi mới lớn. Sau khi lòng vòng trong những con đường tum húm của
khu Chợ Cháy trước đây vốn là khu bán guốc, bán gạo, bán đường đậu, bán thuốc rê,
bán nhang đèn…, nhìn chỗ những gian hàng sung túc ngày xưa bây giờ bị xẻ thành
hai, thành ba căn phòng nhỏ híu cho từng gia đình trú ngụ tôi chắc lưỡi thầm than
cho chuyện đời đổi thay tuột dốc.
May
quá, thằng bạn xóm giềng gần chục năm tuổi trẻ của tôi dầu xa cách hằng bốn thập
kỷ vẫn còn sống ở đây. Nó phải mất chừng mười phút lục tung ký ức mờ phai mới
nhận ra bạn cũ sau khi tôi nói xa gần về thời niên thiếu của nó. Nào là nó bị
thằng Mẹo đánh bầm mắt, a-má nó phải luộc cả chục hột gà để lăn và ông Bảy, ngoại
thằng Ba, phải đốt nhang khoán bùa hết mấy lần. Nào là có lần nó đi tắm mưa với
bạn, vật lộn với tụi bên vựa trái cây và vựa chuối tới tàn cơn mưa, về nhà bị bịnh
ban cua hai con mắt trỏm lơ. Nào là bọn trẻ lối xóm tối tối rủ nhau ra đường ‘Bồ-rệt’ chơi đá lon trốn
kiếm thì nó phải đứng ngoài coi chừng má thằng nào tới thì báo động vì nó quá
cao giò so với tụi tôi cùng lứa. Nào là mấy bữa có hát Tiều ở Chùa Bà thiên hạ
người ta đi coi nườm nượp, đông quá trời mà a-má nó hễ thấy nhà thiếu mặt con Tẻng
thì bắt nó đi kiếm vì sợ con nhỏ cặp bè cặp bạn đi coi hát với thằng bán thuốc…
Tôi
nói tới đây thì thằng Mắc mở mắt ra thiệt lớn, cặp mắt nó tới bây giờ hơi kéo mây
vẫn còn màu xanh ngơ ngác của người có trộn chút máu phương Tây, biểu lộ một sự
vui mừng tuyệt cùng:
‘Vậy
tao nhìn ra được mầy rồi, mầy là thằng S. hồi đó tối tối mầy ngồi bán thuốc lẽ dưới
đường trước quán cơm lòng bò của chú Ba Tiều.’
‘Ừ chính thiệt là tao!’
Nhận ra lý lịch nhau rồi chúng tôi trao đổi về kỷ niệm cũ, thằng nào nhớ chuyện
gì thì hào hứng kể ra, tranh nói cho hết chuyện như sợ thằng kia kể mất phần. Gần
già rồi mà cảnh đời tuổi thơ của hai đứa hiện về liền xì bốc khiến hai ly cà
phê đá vợ thằng Mắc đem tới mời nảy giờ tan ra nguội ngắt, mồ hôi ly tuông nhỏ giọt xuống cái
bàn cũ kỹ trước mặt chúng tôi. Vui ớn gì! Chúng tôi vổ vai nhau thân thiết như
những ngày mới lớn, coi như không có khoản thời gian diệu vợi mấy mươi năm lướt
xẹt qua đời mình.
Vậy mà khi chia tay với thằng Mắc thì lòng tôi buồn rười
rượi, bước ra chỗ lấy xe cách có mấy trăm thước mà chưn bước đi xiêu bồng... Nó
nói con Tẻng ở Mỹ cũng hơn hai chục năm rồi, có nhà hàng lớn đại ở khu phố Lion
miền Bắc Cali mà hình như là không được hạnh phúc, chồng nó nhậu lu bù, gan ruột
phổi phèo u nần chẳng kể số gì hết! Buồn không phải vì nghe những chi tiết mình không
muốn nghe về người xưa mà vì mấy chữ không
được hạnh phúc từ miệng của người bạn trẻ thời đăng đẳng xa xưa.
Đường Sàigòn đông như hội, xe gắn máy chạy loạn xạ như
đạn bắn Tết Mậu Thân ở vùng quận Sáu mà tôi thì bất chấp, cứ miên man nghĩ về chuyện
xưa. Những cái háy hó khinh bĩ hay những cái nhìn bằng con mắt hình mũi tên diệt
thù bao nhiêu lần phóng vô mặt mà tôi thì cứ như người cõi trên hạ xuống trần
coi thế sự để về tấu Ngọc Hoàng. ‘Tao qua
đó làm công cho vợ chồng nó năm năm mà tụi nó đối xử còn hơn người dưng nước lạnh,
bắt làm thêm nhiều giờ mà vẫn trả lương tối thiểu theo tiêu chuẩn ngày làm tám
tiếng… Tánh tao ưa thương người, thấy mấy thằng Mỹ trắng, Mỹ đen ‘hôm-lết’ rách
rưới đói khổ nên múc đồ ăn cũ ra cho. Ỷ mình làm anh tao không cần hỏi chủ, có
lần nó thấy, nó xỉa xói là làm như vậy tụi ‘hôm-lết’ quen thói, kéo tới đông
thì chủ nhà hàng có nước xập tiệm thôi, đồ cũ để o lại bán cũng được vậy! Tao
quê với mấy cô bồi bàn kể gì… thiếu điều trốn vô ‘toi-lết’ gục mặt ở trỏng luôn.
Buồn tủi quá tao về đây ở lì không thèm qua bển nữa, bỏ mẹ nó không thèm chờ lãnh
tiền già. Thêm xốn mắt chuyện nó tính tiền gian lận khách hàng, mỗi người ít
thì chừng 2, 3 đồng nhiều thì 1, 2 chục cộng với tiền thuế không bao giờ nạp đủ
cho chánh phủ. Tao nói hoài là tích tiền thì tổn đức, nó
bỏ ngoài tai lại còn chê tao cù lần, nhiếc móc nào là đạo đức cù bơ chẳng lo
thân chừng sau nầy già nằm một chỗ than khổ chẳng có thằng cha con mẹ ‘hôm lết’
nào tới trả ơn…
Ờ
há! Tôi rười rượi buồn vì mấy lời của thằng Mắc về con em nó. Như có một sự ngửa
úp hai mặt đồng tiền đối với tánh tình trước đây và hiện giờ của người con gái tôi
từng để ý.
Chạy
lòng vòng một đổi không biết đi đâu. Tôi quành lại Chùa Bà đường Nguyễn Công Trứ
kêu một ly đá chanh của quán trước chùa. Xách cái ghế vô ngồi một mình tuốt
trong sân, chỗ kế bên hồ nuôi rùa để thả ký ức về thời quá khứ. Sân chùa gần thế
kỷ có lẽ, thênh thang phủ lớp gạch Tàu đỏ au phẳng phui và không một chút rêu
xanh. Nơi đây có một lần duy nhứt tôi và con Tẻng đứng chen chưn nghe hát hội.
Chúng
tôi không có nhiều kỷ niệm nhưng một hai sự kiện xưa cũng đủ nhói tim khi nhớ về.
Chiều hôm đó khi tiệm bán đường đậu của nó dọn hàng đóng cửa xong thì đằng chùa
Bà vang dội tiếng ò-e của gánh hát Tiều cúng Bà. Thấy tôi lơn tơn đi tới, con
nhỏ nói trỏng: Hát vui lắm. Rồi không rủ
rê gì hết, nó đi thẳng về phía có tiếng đờn và tiếng chập chõa vang rền. Tôi
như bị nam châm thu hút lẻo đẻo đi theo. Cũng chẳng nói gì với nhau, đi là đi vậy
thôi, đứa trước đứa sau. Tới nơi, người chật cứng, hai đứa phải đi xát vô nhau.
Tôi lần đầu tiên có cảm giác bay hồn về hơi nóng của người trang lứa khác phái.
Con nhỏ mê hay làm bộ mê mà mắt chăm bẳm ngó lên sân khấu nghe đào kép Tiều i-ê.
Tôi thì chẳng mê ca hát cù lần kiểu nầy, chẳng hiểu gì hết mê sao nỗi! Nhưng tôi
phân tích thái độ của nó, chịu đứng trước mặt, gần xát đến nỗi truyền thân nhiệt
vô bụng tôi, chắc là rồi đây tôi phải chịu nhục thêm nữa về những cái nhìn ác cảm
của a-má nó. Bà ta hễ gặp tôi là phóng một tia mắt bén như dao cau vừa khinh
khi vừa ghét bỏ rồi ngó qua chỗ khác liền. Nếu có nó ở gần đó thế nào bà ta cũng chưởi nó bằng mấy tràng tiếng Tiều
khiến con nhỏ chù ụ mặt. Tính trong bụng nầy nọ như vậy tôi nắm một bàn tay buông thỏng của nó
hồi nào không hay. Thằng Mắc hiện ra kêu em nó về, nói nhỏ với tôi giọng không
có gì là mất thiện cảm: ‘A Chệt thì không sao, nhưng a-má không ưa mầy.’
Tôi
gần như thẩn thờ cả tháng vì đi qua lại nhiều lần trước tiệm của nó đều không
bao giờ thấy mặt, mà cũng chẳng còn thấy nó lượn qua cửa hàng của cô tôi để đi qua chợ
hàng bông như thông thường.
Biết
được tôi mê conTẻng mà bị a-má nó làm kỳ đà cản mũi, thằng Mẹo chọc tôi: Thôi, bỏ qua đi Tám, để tao vô cho, nhà
tao giàu hơn nhà mầy nhiều. Tôi tức mình muốn gây sự nhưng thấy bộ dạng dềnh dàng
của nó thì nuốt nước miếng nhịn thua.
Tuổi
mới lớn cũng dễ quên. Với lại kỳ thi Tú Tài I trước mắt mới bắt đầu mà những
bài Toán Lượng Giác thì không phải dễ nuốt, tôi quên lững con nhỏ một thời gian
dài.
Cho
tới sau ngày tôi thi đậu đâu chừng một tháng thì thằng Mắc kêu tôi qua nhà nó
chơi. Cũng là chuyện bình thường. Bạn mời thì đi. Đường quận Tư, Xóm Bến tàu vô
trong thì lầy lội, nhà cửa cất sâu trong đất ruộng, đi vô nhà sình dính vô giày
‘san đan’ trĩu nặng như dính keo, chẳng khác nào có ai kéo trì xuống. Tôi vô
cùng cảm động khi nó hiện ra với cái thau nước kêu tôi rửa cẳng rồi tự tay nó rửa
giày tôi đem phơi. Con nhỏ nói sau nầy giàu nó sẽ không cất tiền trong nhà mà sẽ
đắp đường sạch sẽ cho thiên hạ khỏi khổ. Tôi chịu cái lòng từ thiện của nó và
nói bây giờ có tiền ít mà Tẻng có cho người nghèo không? Thằng Mắc cướp lời rằng
trên đường từ chợ về lần nào nó cũng cho tiền ba bốn người ăn mày, trong xóm nầy
ai cũng biết nó ưa bố thí.
Tôi
ngó trộm gương mặt nó. Tròn trịa và rực rỡ như tiên nữ. Nó vừa xối nước rửa tay
tôi vừa hỏi nho nhỏ: Đẹp hơn con Tuyết, cháu ngoại bà bán nhang không?
Những
đứa bán giấy số rượt đuổi nhau kéo tôi về thực tại. Chộp ực ly đá chanh nhưng
sao thấy nhạt phèo. Quá khứ là ký ức, là đời sống ảo, không hiện hữu. Ngay cả nhớ về quá khứ còn không thể làm được
hoàn toàn huống gì đi tìm một chút gì đó
mong còn lưu tồn của quá khứ. Tôi bỏ hẳn ý định khi trở lại Mỹ sẽ lái xe xuống
San Jose gặp Tẻng mặc dầu từ thành phố Fresno xuống đó cũng chẳng bao xa. Tôi
tưởng tượng ra mình và Tẻng như hai con kiến bò theo xương sống của một loài cá
có xương tua tủa. Tẻng đã rẽ vô một xương rẽ nào đó, rồi gặp ngã rẽ nữa, ngã rẽ
nữa…, còn tôi bò tới một nhánh nào khác rồi cũng rẽ và rẽ, và rẽ…. Làm sao hai
đứa có thể găp nhau khi ở trên những nhánh xương khác nhau. Như hai phân tử máu
chạy trong mạch của thân thể, khó gặp nhau vô cùng. Gặp nhau thì cả hai đã cũng
đổi hình thay dạng quá nhiều, không còn ‘vô
vướng bận’ và thanh khiết như ngày trước…
Tôi
nghĩ điều khiến mình rười rượi buồn là vì thâm tâm biết không thể nhảy vô
quá khứ để tìm lại những gì
thời gian đã làm cho biến mất. Điều làm tôi xiêu bồng là tiếc một lòng
nhân hậu không được phát triển, cũng như cảm thấy bi thương cho người xưa cũ nay
đắm chìm trong những tính toán lợi lộc lừa đảo nên sẽ chẳng bao giờ tìm thấy hạnh
phúc, trong tâm hồn cũng như trong thực tế.
Tôi
hỏi một em bán giấy số có bộ mặt thông minh nhứt khi thấy nó cầm tập giấy số xòe
rẽ quạt phất phất trước mặt như mấy bà xòe bài tứ sắc dùng bài quạt khi quá nực
một câu làm em ngơ ngác: Có vé trúng đường về quá khứ không? Nó trả lời bằng bộ
mặt thiểu não của người buôn bán ế ẩm, nảy giờ chú ngồi đây lâu quá, con đi qua
lại ba vòng mà chú vẫn còn ngồi. Thôi mua cho con mấy tờ đi, biết đâu lại trúng
độc đắc.
Thằng
nhỏ an ủi để tôi vui lòng mua thôi. Trúng
độc đắc cũng như gặp được di vật mình ưa
thích thời quá khứ, khó dàng trời mây! Dễ gì!
Nguyễn Văn Sâm
(Victorville,
CA, 12- 12- 2015)