TA ĐI TÌM NHAU…



Yêu thương bao giờ cũng vậy, không thể so đo hay tính lường. Và yêu thương dù cho đi hay để nhận lại đều có cái giá của nó. Đó không phải là đổi chác, mà đó là sự dâng tặng tự nguyện và vô điều kiện. Và như thế ta đi tìm nhau để mong thấy nhau không bằng ánh mắt, không bằng cái nắm tay, mà bằng một ý nghĩ về nhau. Tìm nhau giữa cõi vô thường, thấy nhau giữa cảnh vô thường và thương nhau trong tưởng vô thường…
Ta đi tìm nhau trong chiều dài nỗi nhớ
Tháng ngày qua là những giấc mơ dài…
Để vơi nhớ những tháng năm chờ đợi.
Ta đi tìm....Nỗi nhớ ở trong nhau......
(Trích từ thơ của tác giả Nguyên Nguyên)
Mặc dù đa số người Việt hải ngoại sống tương đối khá đầy đủ ngày nay - có người nghèo người giàu. Song ai cũng có khôn nguôi nỗi nhớ về một thuở sống ở quê hương Việt Nam mến yêu. Hơn 40 năm dài trôi qua chúng ta thấm thía vì có ai ngờ rằng “một lần đi là một lần vĩnh biệt”; trong số ấy có những người đã vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất lạnh nơi xứ lạ quê người, họ đã ôm ấp những giấc mơ là được nhìn thấy lại quê hương yêu dấu. Cũng có người luyến tiếc những mối tình đầu nhẹ nhàng…
Sau khi trúng tuyển tú tài 2 tháng 6 năm 73 với sổ điểm vượt tiêu chuẩn của bộ Giáo Dục, Thụy nộp đơn xin du học Canada. Trong lúc chờ đợi bộ Nội Vụ xét đơn anh nộp đơn thi vào đại học Phú Thọ và Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Gia đình Thụy đề nghị anh nên lên Đà Lạt học tạm và sống cho quen với khí hậu lạnh trước khi sang Canada. Thế là Thụy một mình khăn gối lên Đà lạt để bắt đầu cuộc sống của 1 sinh viên đại học. Anh thuê nhà trọ gần chợ Hoà Bình. Ăn uống khá tiện lợi vì gần giữa phố chính Đà Lạt. Thành phố sương mù lành lạnh rất nên thơ nhưng không thiếu sự lãng mạn của nó. Khi nói về Đà Lạt người ta liên tưởng ngay đến hồ Xuân hương, hồ Than thở, đồi thông hai mộ, thác Cam Ly, vườn hoa Đà Lạt, v.v.v… Từ trường đại học về nhà trọ cũng không xa lắm. Thụy với tính tình có chút lãng mạn thích bách bộ trên đường đến trường để có dịp ngắm nhìn những nữ sinh Bùi Thị Xuân với tà áo dài màu áo thiên thanh, má ửng hồng, áo đan khép nép trông càng trữ tình. Xa xa, hàng hàng lớp lớp sinh viên sỹ quan Đà Lạt oai nghiêm trong bộ đồng phục trắng đi dạo trên đồi thông Đà Lạt. Trong số các sinh viên đang học ở trường Vỏ Bị Quốc Gia Đà Lạt TVBQGĐL Thụy có quen vài anh  học chung với anh trai. Làm sao quên được những buổi chiều, ngồi nhìn mặt hồ than thở trong xanh, phẳng lặng, thú vị hơn là thưởng ngoạn những dòng nước trắng xóa,  êm ả, hiền dịu, thác Cam Ly trắng xóa ào ào giữa lòng thành phố, đã làm rung động xao xuyến tâm hồn bao nhà thơ, nhạc sĩ. Xung quanh thác Cam Ly là những anh chàng cho thuê ngựa...giống như những chàng cao bồi Mễ Tây Cơ... Đà Lạt có những chiều cuối tuần xuôi ngược, nôn nao tìm về một điểm hẹn hò, một giây phút gần gũi yêu thương, hay ngỡ ngàng trước một lời giã biệt. Đà Lạt bây giờ chỉ còn những nhạt nhòa, lãng đãng trong tận cùng trí nhớ. Hồ Than Thở, rừng Ái Ân, vườn Bích Câu, đồi Kỳ Ngộ. Cô sinh viên Đại Học Chính Trị Kinh Doanh hay chàng trai Võ Bị Đà Lạt. Chiều tím hay thung lũng hồng. Những thoáng ngất ngây nhìn "mắt em dìu dịu buồn Tây phương" hay mấy lần lạc loài nhìn lại "phố núi cao; phố núi đầy sương; phố núi cây xanh; trời thấp thật buồn..."
Kỷ niệm Đà Lạt là nơi ghi dấu bao mối tình, cuộc hẹn hò thơ mộng, và cũng là điểm khởi đầu của …một tình yêu chăng?. Bác sĩ Yersin người khai sinh nó khi tạo dựng nên thành phố lý tưởng này, cũng đã ngán ngẩm một câu chuyện tình của chính mình. Chuyện tình giết người trong mộng bên hồ Than Thở. Đà Lạt trở thành nơi diễm tình cho khách lãng du khắp bốn phương trời. Không thể nào và không bao giờ đánh mất thành phố thần kỳ nầy trong niềm thương, nỗi nhớ.
Sau buổi học về môn kinh tế đầu tiên, cô sinh viên dáng người cao cao da ngâm ngâm xinh xắn dân Nha Trang gốc Bắc ngồi cạnh Thụy đến hỏi:
‘’Ngân đến lớp trể hôm nay nên không ghi chép hết note, anh có thể cho Ngân mượn notes của anh nhé.’’
‘’Ok sẵn sàng’’. Hơi ngạc nhiên Thụy trả lời.
Từ dạo đó Ngân tìm cách làm quen, cùng đi học và về nhà trọ ở cùng đường với Thụy. Họ vẫn vào lớp học và đi đi về về như bạn đồng môn, anh không nghĩ ngợi gì, vì dầu sao hai người cũng là dân tứ xứ đến đây ăn học không bà con dòng họ ở địa phương cho nên trao đổi qua lại cho đỡ buồn thì cũng không có gì là quá đáng. Quen Ngân được vài tuần rồi trở thành thói quen, sáng nào Ngân cũng chờ Thụy trước cửa nhà trọ để cùng đến trường, nhiều khi anh cố ý lén ra cửa sau nhà trọ để tránh gặp mặt Ngân. Nhưng sự việc không xảy ra dễ dàng như dự tính. Thỉnh thoảng cuối tuần Ngân đến mời Thụy đi dạo bờ hồ Xuân Hương tìm một nơi yên lặng để hỏi bài những chỗ khó hiểu hay đi ăn chè ở tiệm Việt Hưng gần chợ Hòa Bình, nơi đó họ thường ngồi lặng hàng giờ nhìn ra khu phố chính của thành phố ngắm tà áo bay của các cô gái Đà Lạt... Lúc đầu vì nể tình đồng môn nên Thụy chấp nhận lời mời để đi thăm mọi nơi cho biết Đà Lạt thơ mộng đến độ nào và cũng là dịp tốt để ôn bài. Thỉnh thoảng hai người đem bài học ra vườn thông Đà lạt để ôn bài. Lần đầu bước chân lên đại học, các cours về kinh tế, kế toán, tâm lý học, cách giãng dạy của thầy cô cũng như cách hấp thụ bài vỡ cũng hoàn toàn khác với thời trung học. Đà Lạt xứ sở của các đôi tình nhân. Thụy là dân miền Tây chưa bao giờ thấy cây thông nên mỗi khi nhìn hàng thông xanh rì thẳng tắp anh lúc nào cũng cảm thấy bâng khuâng, hồ Xuân Hương, chợ Đà Lạt, những ngôi nhà biệt thự mang dáng dấp kiến trúc Pháp xưa, những liếp ngô, cải vườn cà phê, dâu... phủ lên cho đồi núi thêm một màu xanh của sự sống. Nhìn xung quanh như đang đi giữa Châu Âu là mơ ước của sinh viên Việt Nam lúc đó.
Đến cuối tuần lễ thứ 4, như thường lệ sau buổi học cùng đi dạo từ trường về nhà trọ, Ngân nói khẻ:
“Ngân sẽ thu xếp về Nha Trang Noel này thăm bố mẹ, Ngân mời anh đi cùng thể để ra mắt bố mẹ được không?”
Thụy hơi ngạc nhiên về lời đề nghị bất ngờ ấy và anh dè dặt trả lời:
Để Thụy suy nghĩ lại rồi trả lời Ngân sau nhé.”. Nét mặt Ngân có vẻ buồn buồn vì câu trả lời hơi thờ ơ của anh, chắc có lẽ Ngân đoán được phần nào cái tình cảm của Thụy dành cho cô. Tuy lòng cảm thấy vui vui vì có bạn gái chiếu cố đến mình nhưng thực tâm Thụy không muốn vươn vấn nhiều với các bạn gái và nhất là gieo hy vọng  cho họ. Vã lại như một sinh viên xa nhà và xa tất cả để lo ăn học ở một phương xa mà làm quen với bạn mới Thụy nghĩ là chuyện bình thường, có ngờ đâu cô bạn tỏ vẻ nghiêm trọng (serious) và muốn tiến xa hơn về mối quan hệ tình cảm…
Tuần sau đó đầu tháng 11, gia đình điện thoại lên Đà Lạt cho biết là hồ sơ du học của Thụy đã được bộ Nội Vụ chấp nhận và anh phải thu xếp về Sóc Trăng  để lo giấy tờ bổ túc làm hộ chiếu, nộp giấy chấp nhập đại học bên Canada, giấy tờ chứng minh thư nhà băng, v.v….
Thụy hoang mang không có can đảm đến nhà trọ của Ngân để từ giã cô ấy. Anh nghĩ cô ấy sẽ rất thất vọng khi không còn nhìn thấy Thụy để cùng mỗi sáng đến đại học Đà Lạt với cô nữa.
Cuối tháng 11 năm 73 Thụy hành trang lên đường du học sang Canada, bồi hồi bỏ lại tất cả những kỹ niệm êm đềm của tuổi thanh niên, kể cả hai cô bạn thời trung học Hoàng Diệu Sóc Trăng tên Hoàng và Viết Phượng. Hai cô bạn gái vừa quen năm cuối cùng ở HD Sóc Trăng và Thụy nghĩ rằng họ chưa có đủ thời gian để hiểu nhau.
Trước khi khăn gói lên đường Thụy lái xe Honda đến từng nhà thăm hai cô bạn gái HD Sóc Trăng lần cuối. Gặp nhau họ vẫn bình thản trò chuyện dông dài, nào hỏi thăm về việc ăn học ở Đà Lạt như thế nào, dự định tương lai sẽ làm gì, v.v.v… nhưng Thụy còn ái ngại chưa dám thố lộ với mấy cô bạn về chuyện đi du học của Thụy cả. Tính Thụy rất dè dặt, anh chỉ báo tin một chuyện gì khi biết chắc chắn là việc ấy sẽ xảy ra. Nhà Hoàng ở đối diện nhà thương Sóc Trăng không xa nhà anh lắm. Vậy mà bây giờ Thụy thấy nó xa thăm thẳm. Anh nhấn ga Honda vừa suy nghĩ miên man, không biết phải nói làm sao với Hoàng đây? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không gặp mặt Hoàng mình sẽ ra sao và Hoàng sẽ sống ở Việt Nam ra sao? Thụy cảm thấy thật chơi vơi, hình như tất cả sắp vượt khỏi suy luận của mình, không chủ động được gì hết. Khi Thụy thắng xe trước cổng nhà Hoàng thì vừa gặp anh cô đã hỏi ngay:
“Thụy mới đi Đà Lạt giữa tháng 9 mà bây giờ mới tháng 11 đã về như vậy chắc là có chuyện gì không ổn đây”. Thụy nhìn quanh nhà: nhà vắng teo hình như cả nhà đếu đi vắng. Hoàng mời Thụy vào nhà và anh trả lời qua loa cho có lệ:
“À thì lâu lâu nhớ nhà và bạn bè về thăm có sao đâu!”
“Thụy đã đi thăm Viết Phượng chưa, chắc cô ấy trông tin lắm nhỉ”. Hoàng rặn hỏi với mục đích tìm hiểu tình cảm của anh nghiên về ai hơn. Cô tiếp: “Hoàng và các bạn vừa lên lớp 12 hồi tháng 9 rồi, không hiểu tại sao có nhiều bạn trai cùng lớp bỏ ra ngoài học hoặc trình diện nhập ngũ nữa...”. Mấy cô hỏi rặn. Thụy im lặng trong khoảnh khắc để cố nhìn dáng dấp Hoàng, có lẽ đây là lần cuối chăng! Tóc Hoàng dài óng ánh chải ngược về phía sau để lộ khuôn mặt trắng trẻo với đôi mắt ngời tinh anh. Anh bổng thấy không gian chìm mất mà thấy gương mặt ấy là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ…Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Chỉ tong ngần ấy ngắn ngủi mà sao anh thâu nhận rõ các chi tiết. Phải chăng đó là hình ảnh của Hoàng mà Thụy muốn ghi lần cuối cùng vào tim, vào óc?. Anh trả lời:
“Mấy cô là nữ sinh nên không bị lệnh Tổng động viên, chứ trai tráng như chúng tôi đều tản mác khắp nơi để đối phó với lệnh TĐV ấy, có người vào quân ngũ, có người ra ngoài học thêm để thi nhảy tú tài 1, có người đi lính kiển, Hoàng thấy khổ và thông cảm cho phận làm nam nhi không”.
Hai người hàn huyên tâm sự liên miên rồi Thụy kể chuyện ăn học ở xứ trữ tình lãng mạn với khí hậu lạnh lẻo nhưng anh không dám đề cập đến chuyện quen bạn gái mới tên Ngân, vì nghĩ các cô sẽ hiểu lầm về mình…Nhưng chuyện đi du học anh không thể dấu mãi với mấy cô được. Nhìn thấy Hoàng vui vẻ hỏi chuyện anh không nở mở miệng nói lời chia tay. Cuối cùng rồi anh cũng phải bật mí chuyện đi du học trong tuần tới. Anh nói:
“Có lẻ đây là lần gặp gở cuối cùng Hoàng à…”
“Sao vậy, Thụy vừa mới về từ Đà Lạt rồi lên trên ấy có trục trặc gì, mà là lần này là lần cuối cùng…”
“Nói thật với Hoàng, Thụy có nộp hồ sơ du học Canada nhưng vì không chắc là sẽ được chấp nhận cho nên Thụy chưa bao giờ mở miệng với bạn bè…Bây giờ hồ sơ du học đã được chấp nhận và Thụy đang về quê để thu xếp hành trang và từ giã mọi người để lên đường đây. Bây giờ còn đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không có dịp gặp nhau nữa”
“À như thế thì quá tốt chứ sao có vẻ buồn thế và tương lai sẽ rạng rỡ ra đấy nhé”.
“Không hẳn như thế đâu Hoàng ơi”
“Sao vậy?”
“Hoàng biết đó, gia đình Thụy đâu có khá giả gì. Gia đình mình đâu phải là con ông cháu cha cũng không phải là đại gia triệu phú. Nuôi mình ăn học ở đại học Đà Lạt hay Phú Thọ là đã quá tốn kém. Bây giờ sang Canada tốn kém hơn gấp 10 lần. Thụy không muốn vì mình mà cả nhà với 9 anh em thắt lưng buột bụng để dành dụm nuôi cho Thụy ăn học ở Canada. Thụy thuyết phục cha mẹ cố gắng gom góp đủ tiền để mua được cái vé cho Thụy đến được Canada rồi phần còn lại Thụy sẽ tự lo lấy. Thụy thừa biết là mình sẽ phải bương chải và đương đầu với một cuộc sống mới đầy khó khăn và thử thách ở xứ người, không một người thân không cha mẹ ngày đêm chăm sóc, việc ăn học cũng như sức khỏe, v.v.v…. Cha mẹ nghe lời giải thích tạm ổn nhưng vẫn lo lắng cho đứa con vừa mới đầy 18 tuổi mà một mai này phải xa cha mẹ để tự túc nơi xứ lạ quê người, sẽ ăn ở và sinh sống ra sao. Ở tình huống ấy Hoàng sẽ rất hiểu trường hợp phiêu lưu của Thụy đấy...”.
“Thôi mình tạm chia tay ở đây và Thụy nhớ gửi thơ thường xuyên để tâm sự và chia sẻ với mình về cuộc sống lăn lộn nơi xứ người, vui cũng như buồn thành công cũng như thất bại nhé. Chúc Thụy đi đường thượng lộ bình an và gặt hái được nhiều may mắn”.
Yên lặng, Hoàng rơm rớm nước mắt, anh lặng lẽ ngoảnh mặt bỏ đi trong chốc lát để khỏi thấy cảnh phải chia tay lần cuối ấy, lòng buồn rười rượi để lại mối tình đầu đời chưa nói thành câu…”. Thụy đi đường bình an, nhớ gửi thơ cho mình nhé…”
Ngày đưa tiễn Thụy ra phi trường Tân Sơn Nhất thật đơn giản chỉ có cha mẹ, anh cả và ba anh bạn của ông anh Thụy tên Trần Hán L., một anh bạn cùng học đại học Minh Đức và anh Phước đến dự. Buổi chia tay của gia đình Thụy sao mà buồn thế trong khi đó những gia đình giàu có Sàigòn thì là một họp mặt chuyện trò vui vẻ xem ra như những cuộc đoàn tụ anh em ở hải ngoại sắp tới. Sau khi làm xong thủ tục hải quan thì Thụy chuẩn bị bước ra sân bay để lên chiếc Air France B727, anh đại uý cùng vài cảnh sát chận anh lại tại cổng ra máy bay và bảo trình hộ chiếu. Xem vội cái hộ chiếu, anh đại uý lắc đầu và nói: “đây là hộ chiếu giả anh ơi”. Thụy cảm thấy khó chịu về mấy cái trò bẩn thỉu hù thiên hạ để làm tiền cho đến phút cuối trước khi lìa xa quê hương. Anh nhẹ nhàng phản lại “thưa đại uý đây là hộ chiếu được cấp bởi bộ Nội Vụ Việt Nam đàng hoàng, nếu mấy thầy nói là hộ chiếu giả thì bộ Nội Vụ Việt Nam cũng là bộ Nội Vụ giả chắc”. Mấy anh cảnh sát thấy giằng co với tôi chẳng đi đến đâu và rốt cuộc các anh cũng để yên cho Thụy lên máy bay. Thật tình là một sự dọa nạt và hối lộ trắng trợn giữa ban ngày.
 Trên máy bay Thụy vẫn còn nhớ nhiều cô nương du học khóc thút thít khá lâu. Khi đến Paris để đổi máy bay đi Montréal thì đa số du học sinh Âu châu đã xuống gần hết chỉ còn trơ trọi Thụy và một anh VN khác. Trong lúc chờ đợi, chuyển đổi máy bay Thụy đến dạm hỏi anh VN mới biết anh bạn tên Huỳnh Công Hưng đi du học cùng trường với Thụy ở Montréal và Hưng sẽ có anh ruột đến đón tại phi trường. Thật may vì Thụy sẽ không sợ lạc đường đến Montréal và từ đó Hưng trở thành bạn thân cùng share phòng với Thụy hai năm đầu đại học.
Vừa đặt chân đến Montréal chuyện đầu tiên của Thụy là tìm chổ ở trọ và sau đó bắt đầu ngơ ngác tham quan Montréal và quan sát tình hình việc làm cho kế sinh nhai. Thụy tìm thấy 1 quán ăn Việt Nam nằm giữa phố Montreal – Văn Lang. Anh vội vào xin một việc làm, ông chủ quán còn trẻ tiếp đón anh nồng hậu nói chuyện với Thụy bằng tiếng Pháp:
Que puis-je vous aider? (tôi giúp gì được cho anh).
Thụy trả lời ngay: “xin lỗi anh nói được tiếng Việt chứ”
“À chào anh, nhìn anh từ xa cứ ngỡ anh là người espagnol (Tây ban nha)”.
“Dạ không, thưa tôi là người Việt Nam chính cống và mới đến Montréal  được hai ngày. Và Thụy xin hỏi anh ở đây có cần người không ạ. Vì Thụy đi du học tự túc cho nên muốn tìm một việc bán thời gian để lo đủ cho cuộc sống hàng ngày và trang trải học phí, tất cả đều là tự túc….”.
“Vâng tôi hiểu, may cho anh chúng tôi đang cần một bus boy làm ca đêm. Nếu anh chấp thuận thì từ chiều mai anh có thể bắt đầu từ 18:00 giờ”.
Thế là dịp may cũng vừa đến, vì Thụy sẽ không sợ chết đói trên xứ người nữa. Đến ngày 20 tháng 5 năm 1974 ông chủ bảo Thụy rằng ngày đó rất quan trọng và khuyên anh ăn mặc chỉnh tề vì sẽ có nhiều khách quý đến dự. Đúng như lời ông chủ đã nói trước, có rất nhiều khách diện đồ đặc biệt đến dự đêm hôm đó, có điều là trên tường có treo lá cờ đỏ với ngôi sao vàng ở giữa và ảnh Cụ Hồ nằm to tướng giữa phòng ăn. Thụy mới hiểu ra là ngày ấy là ngày sinh viên yêu nước ăn mừng sinh nhật Cụ Hồ. Và đó cũng là ngày cuối cùng anh làm việc tại nhà hàng Văn Lang. Sau đó Thụy lại tiếp tục xin làm bồi ở một nhà hàng tây La Crêpe Bretonne. Hai năm đầu du học với visa student các bạn sinh viên tự túc không được đi làm nên buộc phải xin việc một cách bất hợp pháp. Nhưng đa số chủ nhà hàng khá dễ dãi trong việc nhận người vì những job trả lương thấp như thế, dân địa phương chê không thèm làm, nên họ phải tuyển người từ Ba Lan và Bồ Đào Nha sang Canada để làm những job thấp nhất của xã hội…
  Những người bạn cùng share phòng 2 năm đầu đại học 73-74 với Thụy ở Montreal gồm – Lê P. Vy (bố là tham mưu tưởng trường bộ binh Long Thành) và Huỳnh C. Hưng – là hai cựu HS Pétrus Ký và Tôn T. Q. Tùng- Taberd Terminal C (bố là trung tướng Tôn  T.X – tư lệnh vùng 1 chiến thuật trước 75). Các bạn sinh viên đặt ra luật lệ là mỗi ngày có một người nấu cơm chiều cho 4 người và thay phiên nhau làm việc lặt vặt khác như rửa bát và dọn phòng sạch sẽ.
Ngoài việc học và làm việc part-time, mỗi tối thứ năm, thứ sáu và cuối tuần để kiếm tiền ăn học anh du học sinh không còn gì thú bằng là ngồi rung đùi nghe nhạc Trịnh Côn Sơn với Khánh Ly, nhạc Hoàng Thi Thơ với  Sơn Ca và nhạc Phạm Duy với giọng ca truyền cảm của Lệ Thu mỗi khi xong cơm chiều. Nếu chịu khó hơn nữa thì lội bộ sang câu lạc bộ công viên đại học để xem tivi, nhất là từ đầu tháng 3 năm 1975 các anh đều bách bộ mỗi tối đến campus trường để xem tình hình chiến cuộc Việt Nam…. Thụy nhớ mỗi khi đi học về các anh ùa đến thùng thơ để xem thơ người thân và bạn gái từ Việt Nam gửi qua như những trẻ thơ trông quà của mẹ mỗi khi mẹ đi chợ về. Đấy là niềm vui duy nhất của đời sinh viên du học thời ấy…Ngày đó không có Nintendo, computer game hay PS4 để khây khỏa như ngày nay. Trao đổi thư từ mất rất nhiều thì giờ chứ không như ngày nay với Yahoo Messenger, Tango, Skype, Facebook, cellular phone vv chỉ cần vài giây thì đã nói chuyện trực tiếp với bạn bè thân thuộc. Từ thuở bé đến giờ Thụy chưa bao giờ biết làm bếp là gì. Thế rồi các anh cũng phải tự biến chế theo khả năng tưởng tượng của từng đứa. Nấu phở gà ăn với mì sợi spaghetti, kho gà xào gừng với nước mắm nhập từ Hong Kong mặn như muối…Vì muốn tiết kiệm tiền bạc tối đa nên họ hầu như mua gà và lòng gà on sale để tiêu thụ…
Từ tháng 11 năm 73 đến tháng 3 năm 75 Thụy và Hoàng vẫn liên lạc với nhau qua thư từ. Kể cho nhau nghe những vui buồn cũng như những sự khó khăn trong cuộc sống, việc học hành nơi xứ lạ quê người… Rồi chuyện tình cảm của Thụy và Hoàng cũng tiến xa hơn trong mối tình thật trong sáng và học trò….
Khi sang Canada Thụy cảm thấy hơi đơn độc vì thời đó đa số du học sinh là con cái nhà giàu hay quyền thế từ Sàigòn CÔCC (Con Ông Cháu Cha), đã có anh hay chị du học trước nên không bở ngở như Thụy. Vì thế trong thâm tâm anh lúc nào cũng có mặc cảm thua xúc bạn bè.
Giửa tháng 3 năm 75 là lúc các sinh viên chuẩn bị thi Final exams cuối năm thứ 2 đại học Montréal trong lúc quân miền Bắc tràn qua sông Thạch Hản xuyên qua cầu Hiền Lương để bắt đầu cuộc tổng tấn công miền Nam. Mỗi ngày nhóm nhỏ sinh viên VN đều theo dỏi tình hình thời sự nóng bỏng trên đài TV, ngày ấy chưa có CNN nhưng là CBS, ABC và BBC London. Mỗi khi tỉnh nào mất vào quân BV thì họ tô màu đỏ thê lương trên bản đồ hình chữ S...Từ ngày 13 tháng 3 đến 29 tháng 4 chỉ vỏn vẹn hơn 1 tháng rưởi mà vết loan màu đỏ lan dần xuống tận đồng Bằng sông Cửu Long...Các anh sinh viên không sống trong sự sợ hãi hay kinh hoàng vì cuộc di tản nhưng các anh tỏ ra rất lo lắng cho số phận người thân và người thương kẹt lại ở VN. Hơn nửa, các anh lúc nào cũng phập phòng lo lắng khôn nguôi vì không biết người thân và nhân dân miền Nam sẽ sinh sống ra sao dưới chế độ mới...và các anh là những sinh viên lưu lạc tha hương trên đất người sẽ ra sao và làm gì để sống với nguồn tài trợ từ gia đình bị cắt đứt vĩnh viễn từ đây. Từ khi lên 17 Thụy đã sống xa cha mẹ, ăn học hầu như tự lập cho nên bi kịch tháng 4 năm 75 không làm sáo trộn cuộc sống du học của anh cho lắm như những sinh viên khác…
          Tháng 3 năm 75 Thụy nhận bức thư cuối cùng của Hoàng. Anh trả lời và tâm sự rằng « có lẽ đây là bức thư cuối cùng Hoàng ạ. Thụy không biết Hoàng nghĩ thế nào về tình cảm của hai ta. Thụy không dám hứa hẹn lung tung. Nếu chuyện gì xảy ra Thụy chỉ xin ơn trên phù hộ cho Hoàng và gia đình luôn được bình an ». Thụy không biết Hoàng có nhận được bức thư cuối cùng ấy chăng !…
 Rồi biến cố tháng 4 năm 75 lại đến, Thụy và các anh sinh viên du học mất liên lạc với gia đình…
Vào những ngày đầu sau biến cố năm 75, Thụy xung phong làm thiện nguyện để tiếp đón và giúp đở những người đồng hương tị nạn đầu tiên đến Canada, với niềm hi vọng nhỏ nhoi là gặp lại người thân và người thương. Sau thời gian dài mà bóng dáng của sự mong đợi vẫn mịt mù, trong sự mong mõi này Thụy gặp được một cô bạn người Sàigòn gốc Bắc và sau nầy trở thành hiền thê của Thụy, đây là niềm vui sau sự thất vọng dài không gặp được người thân thương.
Trong lòng Thụy luôn phiền vì mất tin tức của người bạn gái, và mất liên lạc với gia đình, người thân. Những người tị nạn đầu tiên đến Canada theo đường hàng không đa số là người bắc, gia đình có quyền thế khá giả hay gia đình sỹ quan cao cấp trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Thụy gặp những anh đại tá không quân Nguyễn Văn H – phi trường Bình Thuỷ, anh trung tá không quân Trần Nhật T – căn cứ Biên Hòa, thiếu tá không quân Vũ Tất T – huấn luyện viên trường Không Quân Đồng Đế Nha Trang và trung uý Đinh Vỹ gặp tôi ở trại tạm cư Longue Pointe, Montréal vào những ngày đầu, họ xầm xì và hỏi ngay Thụy: ” Nhìn anh rất giống tài tử Nguyễn Chánh Tín nhưng sao anh gầy thế hay là anh là em của tài tử này?”.
Thụy vội trả lời rằng “các anh lầm rồi Thụy không phải là em mà cũng không phải là tài tử Nguyễn Chánh Tín. Thụy là dân Sóc Trăng thứ thiệt đấy mấy anh ạ”.
Từ đó Thụy làm quen mấy anh sĩ quan không quân đề nghị các anh về sống chung và share phòng với anh sinh viên nghèo. Các anh dạy Thụy uống bia để khuây khả và nhậu nhẹt đến khuya mỗi cuối tuần tại apartment, nơi anh đang ở. Ở chung với các anh không quân hai năm cho nên Thụy biết rất nhiều sĩ quan không quân và hải quân vùng  Montréal. Những buổi nhậu nhẹt như vậy các anh bàn về những vụ phi hành với những cái chết nhẹ như đường tơ kẽ tóc hoặc chuyện các anh bay lượng trên không trung rồi bất thần đâm ù xuống để làm oai với các cô đào đi bộ dưới đất...Và qua sự quen biết này là mối liên đới cho Thụy biết được nhiều người khác, anh quen rất nhiều các sỹ quan không quân và hải quân trước 75 như anh Hùng, anh Huê, anh Kiệt, Lập và Thọ. Qua anh Hùng Thụy cũng làm quen được chị ca sỹ Hà Thanh, có chồng là bác sỹ Kim, Hùng em trai bác sỹ này là sĩ quan hải quân. Trong ba anh bạn sĩ quan không quân có một anh gọi ông Nguyễn Tấn Đời bằng cậu. Vì thế Thụy có dịp gặp mặt và trò chuyện với ông ta ở Montréal...
Cuộc chiến đã qua hơn 40 năm nhưng những đau thương dân tộc từ đó vẫn tồn tại trong trí nhớ mỗi người chúng ta. Nỗi đau thương xâu đậm nặng nhẹ tùy thuộc vào hoàn cảnh rời khỏi Việt Nam của từng người. Rất nhiều người tị nạn sang ngoại quốc dở khóc dở cười vì gia đình ly tán. Theo ấy cũng có nhiều cuộc tình tan vở. Hình ảnh của những người chiến binh cùng một chiến tuyến phơi thây nơi trận địa, những người bị đưa đi học tập cải tạo chết trong tù, những người dân vô tội đã nằm xuống trong rừng xâu hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do vẫn chưa phai mờ trong trí nhớ chúng ta…
---oOo---
Ba năm gần đây Thụy có dịp trở về Sài gòn thăm gia đình. Có lần Thụy được một anh bạn hàng xóm ngày xưa, cũng là cựu HSHD mời đi dự đám cưới con gái anh ấy. Con gái anh ấy cũng vừa học xong ở Úc về VN lấy chồng là bạn du học ở Canada. Họ sắp xếp cho Thụy ngồi ăn chung với các bạn trẻ mới từng du học ở Montreal Canada. Họ trò chuyện vui vẻ bỗng nhìn thấy một phụ nữ Việt kiều trạc tuổi Thụy đang nhìn anh từ bàn đối diện mà không chớp mắt. Thụy cũng thấy hình như cô ấy có nét  quen quen. Thụy đánh lều dọ dẫm đến hỏi thăm để biết là ai. Nhìn thấy Thụy người phụ nữ nhẹ nhàng ngỏ lời trước:
« Thưa có phải anh Thụy đây không ạ.
-        Dạ vâng sao cô biết tôi.
-        Anh quên Ngân học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt năm 73 hay sao. Ngân đây.
-        Ồ Ngân đấy à. Hình như Ngân có gầy hơn xưa nên tôi không nhận ra. Thụy xin lỗi. Đã gần 40 năm rồi còn gì. Bây giờ già rồi đầu óc có hay lú lẫn một chút, anh xin lỗi Ngân.
-        Anh vẫn còn cao ráo phong độ, nước da ngâm ngâm khuôn mặt phúc hậu như ngày xưa và vẫn đẹp trai… »
Thật quá đổi ngạc nhiên thì ra trái đất tròn. Gặp lại nhau gần 40 năm trời còn gì, Ngân nửa khóc nửa cười khi gặp lại Thụy. Cô ngặm ngùi kể lại khi sắp học xong năm thứ 2 ở ĐH Kinh Doanh Đà Lạt thì biến cố 30-04-75 ập đến, cô cùng gia đình di cư sang Úc. Cô tiếp tục trở lại học nghành Kinh Doanh rồi ra trường làm Kế toán. Một thời gian sau đó cô lấy chồng bên ấy và có một con trai, hiện cũng đang ngồi chung bàn tiệc với cô. Thụy hỏi Ngân « Thế ông xã Ngân đâu ». Ngân cúi đầu nghiên nghiên yên lặng vài giây rồi trã lời anh một cách nghẹn ngào «Tình duyên tụi này không được trọn vẹn và hạnh phúc lắm anh à. Tụi Ngân đã chia tay hơn 10 năm nay. Bây giờ Ngân ở với đứa con trai. Nó ra trường và đang đi làm bên Úc. Ngân vừa được phẫu thuật xong. Mẹ con Ngân về VN trước để dưỡng bệnh đồng thời dự tiệc cưới của cô bạn học cùng lớp với nó ». Hai người tiếp tục hàn huyên tâm sự qua loa trong phòng ăn ồn ào với ánh sáng nửa mờ nửa tỏ đến khi khách về gần hết, Thụy xin tạm chia tay Ngân và trao đổi số phone để liên lạc.
Sáng hôm sau Ngân gọi điện cho anh từ lúc hừng sáng và hẹn anh đi ăn điểm tâm ở một quán café vườn cho tiện việc tâm sự vì không muốn gặp ai khác. Gặp Thụy, Ngân chào hỏi và kể lể mọi chuyện từ lúc anh rời nàng ở Đà Lạt ra đi không một lời từ giã, công việc sinh sống và gia đình bên Úc cho đến bây giờ. Gần đây nàng mắc chứng bệnh đàn bà nên sức khỏe hơi yếu. Tay cầm tách càfé nghe nàng kể, trong giọng nói anh cảm nhận có cái gì đó hơi đắng cay và trách móc. Phải rồi nàng không trách móc anh sao được. Ngày xưa Thụy đã gieo hi vọng tình cảm vào nàng và « quất ngựa tri phong » không một lời giã từ. Thụy xin lỗi nàng. Anh dựa vào lý do là gia đình muốn anh đi du học để tương lai được sáng lạng hơn. Thụy tránh nói ra các chuyện tình cảm khác về các cô bạn gái Hoàng Diệu ngày xưa vì nghĩ sẽ đem tới nhiều rắc rối chứ chẳng giải quyết được vấn đề gì.
Những ngày sau đó ở Sàigòn Ngân vẫn gọi điện mời Thụy đi ăn mục đích để nhìn thấy anh, hết ăn sáng đến ăn trưa và lần cuối cùng nàng khẻ tai anh nói rằng « Ta biết nhau, hiểu nhau rồi mến nhau và không thể đến với nhau vì thiếu duyên nợ nên mỗi người chúng ta theo đuổi một con đường cho riêng mình. Thế nên Ngân chấp nhận ý niệm duyên tan - duyên hợp, dù rằng Ngân tin rằng duyên hợp là do con người tạo ra, và duyên tan cũng chính do con người đoạn tận nó. Tuy bây giờ sức khỏe Ngân hơi yếu, nếu sau này anh còn nghĩ đến Ngân thì khi về hưu anh hãy về Úc sinh sống, Ngân hân hạnh được nấu cơm cho anh…Nếu Ngân không có cái may mắn ấy thì ta sẽ tìm nhau vào kiếp khác. Ta vẫn cứ tìm nhau, Ngân tin rằng phía con đường Ngân đi sẽ có một người bước đến. Có chia ly ắt có hội ngộ phải không anh?»

Nguyễn Hồng Phúc
Montreal vào cuối năm 2015










 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual