Tôi mân
mê cuốn Đặc San Hoàng Diệu 2014, như đã từng mân mê những trái cây căng
phồng ngọt lịm của vùng Kế Sách, nơi đã có một thời đã sống... Ngồi
lật từng trang, chăm chú từng chữ, vì đây là “của Sóc Trăng” khá hiếm hoi,
đã khiến lòng như luôn thèm khát ưóc mơ... Đọc tới đây, có thể vài bạn mình
nghi ngờ “lão gìa” nầy hơi quá hay đã lẩm cẩm rồi. Xin thưa rằng không, hoàn
toàn không..., nếu có chăng là tôi bị cuốn hút vì những dòng chữ, những bài
thơ, những nội dung phong phú vô cùng... Bài nào cũng hay, cũng đáng đọc. Xin cho
tôi được cảm ơn các tác giả, đặc biệt anh bạn Nguyễn Hồng Phúc, qua bài
viết ”Về Thăm Miền Tây, đã giúp mình như sống lại nơi vùng đất Sóc thân thuong,
nơi được sinh ra, với những ngày lớn lên đầy ấp kỷ niệm. Ôi, những kỷ niệm
buồn vui như quyện chặt vào từng hình ảnh đó đây cũng như cuả ai đó..., từng
điạ danh và cả những món ăn mà ông bạn H.P đã miêu tả khá tỉ mỉ... Riêng về điạ
danh, bốn câu thơ:
Có bao giờ em về thăm nơi ấy
Một miền xanh biêng biếc hai mùa
Có bao giờ em nghe tên ấy
Cù lao Dung đẹp tựa bài thơ
của anh Lê Đức Đồng, đã khiến mình nhớ lại cù lao Dung, nơi mà:
“Em” đã từng sống qua nơi ấy
Khi tuổi thơ mưa nắng bốn mùa
Cù lao,tên đẹp như con gái
Nhớ Dung hoài,như nhớ nàng thơ.. .
Thật vậy, mình đã sống tại đây
từ năm 1945, lúc vừa tròn hai tuổi... Ôi thời gian quả
tựa bóng câu, thấm thoát đã bảy mươi năm rồi, mà bao hình ảnh như vẫn còn rõ
nét. Mình không muốn viết lại những gì mà anh H.P đã làm, vì anh đã viết
quá hay và khá đầy đủ. Cũng không thể ghi ra chi tiết ,điạ lý hình thể của “một
miền xanh biêng biếc”, vì lúc ấy mình còn ... tấm truồng(xin lỗi), chỉ lo ăn nào
biết chi cỏ cây hoa lá... Trong khoản gần sáu năm, chỉ quanh quẩn trong phạm
vi đưòng kính khoản 100 thước, ngoại trừ những lần theo ba đi ruộng, hay theo
cô tôi ra bờ biển(đúng hơn là sông Cái Hậu Giang)để canh chừng tàu Tây khi muốn
giả gạo- vì nếu nghe tiếng chày vang vọng, họ sẽ bắn “mọt chê” vô, hoặc đôi lúc
lội trong lùm hay dừa nước thăm người bà con sống gần đó khoảng vài trăm thuóc... Đến năm tám tuổi , “vưọt thoát” khỏi nơi đây, chưa một lần có cơ hội trở lại,và
chắc chẳng bao giờ... Thôi thì đành tìm tòi trên net hay sách báo, tài liệu
để có dịp nhớ lại hình bóng ngày xưa, cách đây khoản 70 năm...
Trưóc tiên, đề cập đến “một miền xanh
biêng biếc hai mùa”, tôi đã cố tìm tòi,nhưng đến nay vẫn chưa hiểu vì sao cù
lao tên lại đẹp quá. ? Qua tìm tòi, được biết ngoài tên nầy, cù lao còn mang
tên Huỳnh Dung Châu, Hồ Châu,Kắc Tưng, cù lao Chằng
Bè(tên một loại chim). Cùng theo vận nước nổi trôi, qua bao lần thay đổi đổi
thay, đến năm 1975 vẫn mang tên cũ (trên phưong diện hành chánh, là xã An Thanh
Nhứt. . ) và thuộc Quận Long Phú, tỉnh Ba Xuyên. Đến năm 2002 vẫn còn là cù lao
Dung thuộc huyện Long Phú.Mãi đến ngày 30/4/2003, nơi nầy (gồm cù lao
Dung, cù lao Tròn và cù lao Cồn Cộc)trở thành một huyện của tỉnh Sóc Trăng,với
diện tích 23.608 mẫu, dân số 62.931 ngưòi(2009) Xét về ‘gốc tích”, qua cái tên
Huỳnh Dung Châu, biết đâu là tên một cô gái.
Nếu không lầm, theo nghiã tiếng Hán Việt,“châu” là một vùng đất, Huỳnh là họ cà
Dung là tên . . Vào thời xa xưa cách đây bảy mưoi năm , mình đã từng bôn tẩu
tạm . .trốn nơi nầy, cũng như trước đó trên hai trăm năm, ông chúa Nguyễn Ánh
đã . . cũng tạm trốn nôi đây. Cù lao Dung là vùng đất hoang sơ, với nhiều con
rạch nhỏ len lỏi vào khu rừng bần và dừa nưóc cùng các cây tạp khác.. . là nơi
trú ẩn khá lý tưởng. Kể ra, mình cũng có cái vinh hạnh đưọc lẩn trốn một nơi mà
trưóc đó,ông vua đã “ẩn” mình (nên gần vùng nầy có địa danh Long Ẩn). Trong
thời gian “long ẩn”,chắc thế nào ngài Nguyễn Ánh cũng đã phải “mê mệt” món cá
ngát nấu canh chua cùng bần chín,hay món bần non cặp cùng mắm sống, và chắc
chắn ngài ngự cũng đã mê mệt nàng thôn nữ căng phồng chắc nịt tên . .Huỳnh
Dung(?). Kể ra làm vua chúa sướng thiệt, đến đâu cũng đưọc thần dân quì
lạy và . .chiêu đãi cho đủ thứ, và để ban ơn,vua chỉ cần ra chiếu chỉ nơi
đó đưọc xử dụng chữ “long” là xong. Và đia phưong nào có con gái được vua”ban ơn
mây mưa” tên cô gái được vinh hạnh chọn thành điạ danh, như trường hợp nàng Huỳnh Dung. Chuyện “đại sự”xin
lạm bàn cho vui, cùng liên quan chuyên nầy, những cây bần cũng đưọc thơm lây,
vì trong thời gian bôn tẩu, ngài Nguyễn Ánh thưỏng thức món mắm sống kẹp bần
non ngon quá, rồi lại nhìn những lá bần mộng nưóc, thon dải tợ như lá liễu, bèn
ban mỹ danh cho cây bần thành “thuỷ liểu”.Xin thay mặt cho những cây
bần,kính cẩn cảm ơn đã đưọc ngài ân sủng, ban cho mỹ danh”!.
Trở lại câu chuyện đời tôi, vào năm
1945, vùng Sóc Trăng, xảy ra biến cố ”Miên dậy,cáp duồl” ( có nghiã nguòi Miên
nổi lên, giết ngưòi Việt”), đại gia đình tôi phân tán nhiều nhóm và ly
tán, phải bỏ của cải gia sản,bồng bế nhau chạy giặc “cáp duồl”. Nhóm của tôi
gồm ông bà, cha mẹ, người chú, hai cô và tôi cũng xuống ghe chạy về Sóc Trăng,
nhưng giữa đưòng “được ngưòi ta” khuyến khích đi theo. .giải phóng. Thế là
phải theo ngưòi ta về miệt cù lao,vùng “giải phóng” lúc đó.. Gia đình chúng tôi
vưọt qua sông Hậu, tiếp cận cù lao, len lỏi theo con rạch nhỏ, khi
cảm thấy xa sông Cái là dừng lại ,nơi bốn bề toàn dưà nước và bần., cùng rừng
rậm với cây dại, ô rô cốc kèn... và với những “bạn bè” chào đón là muổi
mồng và bù mắc, cùng “khỉ ho cò gáy”. Cuộc sống khởi đầu, nghe ông bà kể lại
thật khó khăn trăm bề, trước tiên phá rừng ,đào đất đấp nên, đốn cây làm nhà,
và lợp bằng lá dừa nưóc ... Kế tiếp là tìm nơi rừng thưa phát quang, trồng lúa.
. .Tuy gia đình tôi trăm bề vất vả, nhưng có điều sướng là tự do “lấn đất
dành rừng”, mặc tình khai phá bao nhiêu tùy sức, không ai bon chen hay
phải xin phép cấp sổ đỏ đen gì cả. Cũng nhờ có chuẩn bị, nên những món
căn bản cho cuộc sống,gia đình lo khá đầy đủ, nhưng ngaỳ lại ngày qua, những
thứ ấy cạn dần, gia đình tôi phải sống những ngày như tách biệt với thế giới
bên ngoài, lúc nầy là chợ Quận L.P. Đưòng về Quận không xa, chỉ cần vưọt qua
sông Cái, lén về chợ là xong,nhưng khó khăn nguy hiểm vô cùng, vì ngoài sông
Cái thưòng tàu Tây canh chừng,sẵn sàng nhả đạn.(bấy giờ, cù lao Dung là vùng
giải phóng, ai sống vùng nầy là Việt Minh). Về tới chợ Quận không khéo bị phát
giác, dễ bị công an(một ngành của cảnh sát chánh phủ quốc gia thời nầy)
bằt cũng dễ bị tội tù. Mà ngược lại, mình lẻn về thành (chợ Quận) không khéo
cũng bị “ngưòi ta” kết tội . . về thành báo cáo, là “điềm điệp” cho quốc gia,
cũng dễ bị cho đi mò tôm. Thiệt tội cho gia đình tôi, cũng như biết bao đồng
bào phải chịu cảnh”một ách đôi ba tròng”Vì vậy, gia đình phải sống trong cảnh
thiếu thốn hoang sơ như ”Lổ Bình Sơn”, hết dầu lửa thì xài dầu chai hay mủ mù
u., không đưòng thì nấu mạch nha làm chất ngọt (mà lại ngon nữa), không me nấu
canh chua thì có bần chín, trái giác (một thứ giống như dây nho, nhưng trái chua
áí)., không mở chiên cá, xài tạm mở của gà vịt hay của cá. Ông và ba tôi ghiền cà
phê, phải dúng tạm nước cơm cháy khét . . . Riêng phần tôi, được ngưòi thân dạy
cho cái chữ bằng cách lấy than (thay cho phấn) vẽ chữ trên miêng ván, hay
kẽ trên nền đất. Nhờ vậy mà ngay từ nhỏ cũng biết đánh vần, biết đọc câu “công
cha như núi Thái Sơn”. Nhưng rồi, không lễ cứ chịu mãi cảnh thiếu thốn, ba và
nội tôi phải liều thân lẻn trốn về chợ Quận, mua những thứ quá cần thiết cho
cuộc sống,như đưòng,dầu lửa, dầu chai trét ghe ,mở chiên cá, tiêu tỏi ... và đặc
biệt một miệng chài cá, đồng thời cũng phải bán những đôi chiếu do bà và hai cô
dệt., để có tiền... May mắn, thời gian sáu năm, bao lần lẻn về thành, đều không
bị tai nạn nguy khốn chết ngưòi... Mỗi lần về thành mua sắm, nhà tôi như như mở
hội “ăn”. Cả nhà quây quần thưỏng thức những cái bánh da lợn, bánh cam, hay
những cục thịt quay tưom mở, ông và ba nhâm nhi cà phê cùng tách trà ra sảng
khoái. Mỗi lần “mạo hiểm” về thành, nhà tôi lại có thêm ít ra hai hủ đưòng chảy
tổ bố, một thùng dầu lửa to cùng mở, đậu... và riêng cho tôi một hộp phấn đầy
ấp...
Ngày nay, cù lao Dung thành một Huyện,
có đưòng xe, tàu đò, chợ búa... đủ cả, nhưng vào thời 1950, là chốn hoàng vu,
khắp cả vùng toàn rừng rậm, dừa nưóc, đặc biệt nhửng rừng bần xanh mưót.,
chẳng có đưòng xá phưong tiện giao thông.Muốn đi phải băng ruộng đồng, (mà rất
ít khi, có ai mà thăm viếng tới lui). Còn nhớ cả vùng mênh mông,chỉ có một nhà
cách xa là bà con. Hoặc dùng xuồng ra bờ sông canh chừng tàu Tây khi cần giả
gạo. Nhớ có lần vừa ra mé sông, đã nhìn thấy chiếc tàu với mấy tên lính đội
mũ chào mào đỏ chói, cô tôi và tôi nín thở, nằm im từ từ nghiêng xuồng ngả mình
xuống mé sông núp bên lùm ô rô đầy đặc. Rất may, nếu bị phát giác, chúng quạt
đại liên khó bề sống sót. Kể đến đây, bỗng nhớ mà thưong con gà trống, cả đàn gà
hàng chục con mái,chỉ duy nhứt một con trống đảm đuong thiên chức. .truyền
giống. Sướng... chết đi được, nhưng mỗi sáng nó bị đè đầu trong cái rổ nhỏ. Nếu
không nó lại gáy, và tàu Tây nghe tiếng lại nả “mọt chê”. Trưa trưa,không khí
loãng ra, lại thả gà có gáy cũng không vang đội đi xa. Sau khi đưọc. “giải phóng
“khỏi cái rổ, mặt trời lên cao gà không còn gáy nữa.Vả lại, chàng gà trống còn
phải dành thời giờ rượt đuổi thực hiện quyền ”làm chồng” cả chục gà mái
cũng đủ mệt cầm canh..Ngoài đàn gà vài chục con lớn nhỏ, còn cả bầy vịt xiêm ú
na ú nần,với chỉ một chú vịt trống luôn bưóc đi phụt phịt, với cái mào đỏ chót. Cũng như bên phía đàn gà, chỉ độc nhứt một “ông vua” vịt trống mà thôi,
những con vịt trống tơ quả là khó sống, vì sẽ bị con cồ cắn xé xua đuổi.. . Gà
vịt nhiều, to mập vì thức ăn dư thừa, ngoài lúa thóc , cá tép nhỏ có cả những
con tôm kho tàu đưọc vứt bỏ, vì nhiều quá ăn không hết. Gà vịt nuôi thả lang,
mặc tình chúng đi đâu thì đi, chẳng sợ ai bắt trộm (vì chẳng có gia đình nào
sống gần cả). Nói thế, thật ra cũng có những tên trộm chuyên ”bắt cóc” mấy chú
gà con, đó là diều và chồn cáo. Tôi không sao quên đưọc hình ảnh gà mẹ
xoè cánh che cả đàn con khi nhìn thấy diều bay lưọn rình mồi từ trên cao,và tôi
cũng không quên hình ảnh gà mẹ nhào ra chiến đấu với diều..Thật là những hình
ảnh khó quên, gà có đôi mắt ngang hai bên, phải nghiêng và ngốc đầu nhìn lên
trời khá vất vả. Diều là con bay lưọn khá nhanh và đôi mắt rất sáng, chúng lưọn
lờ trên cao, canh chừng và phóng xuống nhanh như sao xẹt, nên nhiều lần
gà mẹ đành đau lòng nhìn con bị cướp đi... Chiều về, phải lùa vô chuồng, đóng
cửa cẩn thận ,đề phòng bọn trộm đêm là lủ rắn và chồn cáo. Kẻ thù nầy ghê
gớm lăm, chúng hay hoạt động về đêm, và thưòng chọn những con gà giò ngon
lành. Cũng có khi chúng bị dính bẩy, và thế là nhà tôi có dịp đồi món. Chồn mướp
mà xào lăn thì ông và ba tôi cũng phải hết cả lít đế, nhứt là chồn mưóp thịt
lại thơm mùi mưóp nữa chớ. Riêng về khỉ thì bị chê, vì dai và hơi hôi, nên không
đưọc ưa chuộng, vì vâỵ chúng nhơn nhơ đánh đu trên những cây bần quanh nhà như
chọc tức ngưòi ta và chẳng biết làm gì hơn là. . . làm trò khỉ..
Cuộc sống gia đình tuần tữ trôi
qua, khá buồn tẻ và nhàm chán, nếu không có những lần chạy giặc. Lâu lâu, bọn
Tây lại mở cuộc ruồng bố, ngoạì những lần chúng từ ngoài sông Cái câu mọt chê
vô. Gặp phải và biêt trưóc những trận càng lớn, cả nhà kéo nhau chạy xa, có lúc
gần tới Bát Tràng (thuộc Trà Vinh). Khi gấp quá, thì cả nhà lẩn trốn vào những
đám dừa nưóc luôn dầy đặc gần bên, hoặc cấp thời, cả nhà chạy và “dấu” tôi
trong đám ô rô cốc kèn đầy kiếng và gai gốc. Lúc sợ, đưọc nhét vô lùm không
sao, khi hết giặc, là lúc đưọc kéo ra, gai đâm rưóm máu nhiều nơi. Những lần
chạy loạn như vậy, thưòng ba hay ông cỏng tôi trên vai, tay cầm vài món cần
thiết,nhưng thưòng là miệng chài và cây cưa. Ngoài ra, lâu lâu nhà tôi
đưọc trở thành “rạp hát”.cũng nhộn nhịp vô cùng. Chẳng biết từ đâu, vào buổi
chiều ngưòi ta qui tụ một số ngưòi lớn và khá nhiều con nít. Một cái màn được
kéo lên, với cái đèn “măn sông” sáng trưng. Tôi không còn nhớ người ta có hát vọng
cổ hay không, nhưng chắc chắn có màn “hát hình”,tức dùng bàn tay tạo hình
con nầy con kia hay hình ngưòi phía sau tấm màn, rọi đèn. . . Xem chừng con nít
khoái lắm,vì nơi chốn nầy có gì vui lạ đâu.Đặc biệt là các bài tân nhạc với
tiếng đàn mandoline, mà trong đó bài hát ,chẳng biết tựa là chi,nhưng tôi không
bao giờ quên lời (dù đã gần 70 năm).Đó là:”anh em ta vui hát trên đồng hoa, đây
bao la hưong sắc hoa chan hoà. .vân vân và vân vân.”. Và thêm bài nữa là”sol đố
mì”, dường như là”ăn khoai lang là khoai nưóng lùi. . “ Xin lỗi, biết có phải
thế không,nhưng nếu trên đời nầy, ngoài ba má ông bà tổ tiên, đối tượng mà tôi
nhớ mãi là khoai, không phải khoai lang ,mà là khoai mì. Món nầy ngoài bắc gọi
là sắn, mà lại là sắn lát phơi khô, những thành phần cựu tù chúng tôi
“ngán tới cổ” , ngán nhưng là cứu tinh trong những ngày đói khát.Lúc đói, một
khúc khoai mì là “ước mơ huyền thoại”. Và dường như định mệnh an bài, bản nhạc
“sol đố mì”(trong nầy có MI là điềm báo trước) sau nầy dân Việt có
lúc phải ăn mì. . . . . Trở lại câu chuyện, lúc đó, thiệt tình chẳng hiểu biết
chi nhiều, nhưng rõ ràng cả nhà tôi phải nai lưng làm gà vịt,bấu nưóng vất vả.
Và điều đáng lo nhứt nghe ông bà nói lại, mỗi lần như vậy, người thân lo sợ vô
cùng. Nếu đang hát, phía quốc gia biết đưọc sẽ câu “mọt chê’ hay mở cuộc bố
ráp, nếu không chết vì bom đạn phía bên nầy, thì sau đó, có thể bị “bản án” cuả
bên kia vì bị nghi ngờ đã ngầm báo tin cho giặc. Đàng nào cũng có thể bị ...
tiêu xưong mạng. Thật may mắn, chưa lần nào bị cả, nhưng tôi nhớ rất rõ, luôn
luôn khi “văn công” trình diễn luôn luôn có ngưòi ngồi kề đèn măn sông, với cái
thúng to, sẵn sàng chụp kín nếu có động tịnh gì...
Trong những ngày sống nơi “huỳnh dung
châu”, bên cạnh những thiếu thốn, cũng có vài thứ luôn dư thừa là khỉ, chồn,
rắn rùa, cùng tôm cá. Những thứ con nầy thật chẳng biết kế hoạch gia đình chi
cả, mà mặc tình ... tình tự với nhau, sinh sôi nẩy nở. Bọn khỉ tự do nhảy múa,
đánh đu trên những nhánh bần, rắn rùa trong ruộng trong lùm, cá tôm mặc tình
tung tăng dưói nưóc. Chỗ nào có nưóc là có cá, cái ao sau nhà mỗi lần mưa nưóc
đục, tép bạc và cá chốt nổi quơ râu, chỉ cần lấy rổ hớt lên, nhưng không thèm ăn
vì nhỏ quá,mắc công làm. Cá tôm dưói sông dư thừa, mỗi một hai ngày, ông và ba
tôi đi chài, mang về khoản một hai chục ký cá tôm đủ thứ.Ăn không hết lại phoi
khô, làm mắm.Làm cá mỏi cả tay, lại không có hủ khạp chứa,vì phải dành chứa
nưóc mưa. Riêng tôm thì luộc ăn tưoi, kho táu,ăn một hai hôm không hết lại bỏ
đi làm thứ khác. Cá thì đủ loại,ló, trê,chẻm,lăng, ngát... Đặc biệt cá ngát ,
hình thù tương tự như cá trê trắng, nhưng dài đòn hơn và luôn to mập, dưòng như
chúng ăn bần chín mà mập ra. Không biết có phải thế không,nhưng cá ngát mà nấu
chua cùng bần chín, đến vua Gia Long cũng phải chảy nước miếng. Ăn hoài một thứ
cũng ngán và chán, nhà tôi lại tìm món ăn khác là cá thòi lòi,như ông anh H.P
đã đề cập đến. Gọi là cá thòi lòi, vì chúng có đôi mắt khá to và lòi lên,loài
nầy thuờng sống trong hang dưói bùn, ba tôi dùng lọp làm với lá dừa nưóc, úp
trên miêng hang, dọc theo bờ sông Cái.Sáng ra, lúc tôi khoản bốn năm tuổi, đưọc
cho đi theo,mang theo cái giỏ nhỏ. Lúc về, tôi hêt mang nổi vì quá nặng,đầy
cá. Cá thòi lòi lọai nầy thưòng mình to bằng ngón chân cái, dài trên tất rưỏi. Cá
mang về kho tiêu ăn với cháo trắng thì đến vua Gia Long lại cũng phải
chảy nưóc miếng. Thiệt tình không muốn cà kê chuyện ông vua giỏi nghề”bôn
tẩu”.nhưng hầu như miền Nam nơi nào cũng có dấu chân ông. Nghe ông bà kể lại,
vùng Sóc Trăng, nơi Lịch Hội Thượng qua Vĩnh Châu, có con sông Pha. Pha là tên
bà “phi” nào đó của vua Gia Long đã qua đời tại đây? Và chẳng biết cái tên Quận
Long Phú cũng đưọc vua ban tặng, cũng nên ?
Chuyện quê nhà năm xưa,biết bao
điều phải kể lại, bao kỷ niệm khó quên..., đặc biệt cù lao Dung,nơi tôi đã
trải qua những ngày đưọc sống và lớn lên trong tình thương yêu, đùm bọc của ông
bà, cha mẹ , cũng vì là đứa cháu nội duy nhứt cùng chạy giặc lá cháu đích
tôn... Nhưng rồi thời gian cứ trôi, chẳng lẽ chôn chặt cuộc đời nơi “khỉ ho cò
gáy”, cứ mãi nhìn lũ khỉ ho hen và làm trò khỉ mãi sao, tuổi tôi càng lớn phải
đưộc đến trưòng, và chú trên 20, hai cô đã quá tuổi cập kê... Thế là lại
tìm cách . . giải phóng. tạm biệt vùng đất “một màu xanh biêng biếc hai
mùa”. Hôm nay, đọc cuốn Đặc san D.H 2014, khiến có dịp nhớ lại. Xin cảm ơn tất cả,
cảm ơn anh Hội Trưỏng dễ thưong và đẹp trai P.T.A, cảm ơn ông anh H.P,
anh L.Đ Đ, cô TT.CH. . . Riêng về xứ cù lao Dung, càng khó quên. Xem báo,
trên net,và cả những tài liệu quê nhà, mỗi khi nhìn thấy chữ Sóc Trăng, Long
Phú , hay cù lao Dung... lòng tôi bỗng như chùn xuống, nhớ nhung.Tin tức liên
quan vùng đất quê tôi, chẳng mấy khi bỏ sót. Đọc kỹ, xem tới xem lui đề nhớ, để
thưong và dễ buồn nữa. . Hãy thông cảm,vì tuổi già hay tìm về quá khứ...
Còn nhớ rất rõ, khoảng năm 2005 đọc trên tờ báo T.T, đưọc biết chỉ nội cù lao
Dung có khoản 200 cô gái lấy chồng Đài Loan... Cũng có gia đình nhờ con gái
“lấy chồng ngoại”, cất đưọc nhà ngói, nhưng tỉ lệ là bao.??? Và sau đó, phong
trào lấy chồng ngoại, nào Đài Loan, Đại Hàn, Trung Quốc, Mã Lai, Tân Gia
Ba... Ngày xưa, từ những mái tranh ngoài vọng ra lời hát ru con
Má ơi, đừng gả con xa
Chim kêu vưọn hú biết nhà má đâu. .
Ngày nay , lời hát ru con đã ít nhiều
thay đổi;
Má ơi, đừng gả con xa
Gả con đi Mỹ hay Ca Na Đa đưọc rồi.
Mỗi một cô “lấy chồng xa xứ”, đều ít
nhiều đễ lại cảnh đau lòng cho những chàng trai;phải thẩn thờ
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển bắc, anh tìm biển đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan,Hàn Quốc,em... dông mất rồi.
Ôi, dù. dông mất theo chồng, hay “ô đi
ghe”, hay “ho hen (H.O) . đoàn tụ, tất cả rồi cũng cùng chung số phận làm
“đàn chim thiên di”. Buồn.!!!
Hoài Việt.