Trong một
đời người, theo thời gian, có những việc có thể quên mất dễ dàng, nhưng cũng có
điều chẳng bao giờ xóa đi được trong trí nhớ. Dấu ấn khắc sâu này, có thể lẩn
khuất đâu đó trong ta, nhưng sẽ sáng rực lại khi có một lực nhỏ chạm khẽ vào
tâm thức. Cái chạm khẽ này vào góc khuất trí nhớ của tôi là màu trời u ám
sáng nay, tới sở chưa tới giờ làm, tình cờ mở một email trường xưa với hình ảnh
cao lớn của một người, nhân cách của một sĩ phu đất Quảng. Sĩ phu đất Quảng mà
tôi muốn nói đến ở đây là thầy Lê Vĩnh Tráng.
Tôi chưa
hề học thầy Tráng năm nào cả ở mấy năm trung học, và ngay tình là cũng không
biết nhiều về ông thầy –có-giọng-nói-miền-ngoài này, chỉ nhớ thầy có một dáng
vấp cao to, đi đứng mạnh bạo với chiếc kính đen to bản. Mãi tới khi gặp và có thời
gian đồng lao (tù) cộng khổ (sai) với thầy ở trại cải tạo của D20 năm 1976, tôi
mới biết thầy nhiều hơn qua các sinh hoạt trong trại. Cái dáng vấp của thầy rất
dễ nhận ra và dễ nhớ lắm, lừng lững như một cây thông thẳng đứng, cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng, không tất bật chuyện thiên hạ, không xum xoe với cán bộ quản
giáo, thầy nhẫn nhục chịu đựng như phần đông chúng tôi, nín thở qua sông,
(ngoại trừ tôi một vài lần lén thở mạnh để làm một vài câu thơ cho đỡ . .
.tức), duy có chắc phần khổ sở hơn bọn trẻ như tôi vì chắc là nặng phần lo cho
gánh nặng gia đình đang đè trên vai người vợ và các con nhỏ dại bên ngòai.
Trong những vị thầy khăn gói vào tù theo chân chúng tôi ngày ấy, giọng nói lạ,
sang sảng và bộc trực của thầy cho tôi một cái nhìn nễ phục, nhưng tôi lại ít
có dịp gần gũi.
Tôi ở vào
diện đặc biệt nên bị cho vào trại 4 ở trung tâm thẩm vấn sau thời gian gạn lọc
ở Trung tâm Cải Huấn của tỉnh. Trại hỗn tạp 4 gồm tòan thứ hơi bị chú ý như: an
ninh quân đội, tình báo, phân chi khu, phản động . . . và cả một số cải
tạo viên không có lý lịch đang trong vòng thẩm tra. Ở trại này, ít khi chúng
tôi được ra ngòai như các trại khác và là tóan đựợc đưa đi lao động sau cùng
của các tù nhân tại đây. Thế nên hình như tới năm 1977 tôi mới gặp được thầy
Tráng ở trại Kinh Cũ Rừng Tràm, thầy lao động hơi lâu nên rắn rỏi và đen đúa,
nhưng cũng rách rưới lắm, vì cũng như nhiều gia đình công chức khác, với lương
tháng tiêu từng ngày của giáo chức tất nhiên là chẳng còn gì sau năm tháng đổi
đời, thầy tả tơi mà trò cũng tơi tả . . .
Ông thầy
dáng vấp hiên ngang ngày xưa với áo quần thẳng nếp tác phong mô phạm, kính đen
to bản, cà vạt hẳn hoi . . . đã mất đi phần sau là phần . . . áo quần cà vạt,
thầy chỉ còn giữ được dáng vấp lừng lững như xưa, còn quần áo thì thảm não lắm,
thầy vận chiếc quần may bằng vải bao cát như đa số anh em ít được thăm nuôi
hoặc chỉ được thăm nuôi về tinh thần vì hòan cảnh nghèo khó. Nhưng hình
ảnh thầy rất đẹp trong mắt tôi, họan nạn và nghèo khó không làm mất đi hay hao
mòn phong thái của một sĩ phu đất Quảng: thầy vẫn là người thẳng lưng trước
nghịch cảnh, không cúi đầu với những kẻ nắm quyền sanh sát mình. Tôi là người
lặng lẽ quan sát mọi sinh hoạt trong cái thế giới tù tội mà phẩm giá con
người nhỏ hơn chén cơm tấm áo, và lương tâm được đổi chác bằng những ưu đãi nhỏ
nhoi hay lòng ham muốn tâng công, hay những lời hứa hão huyền. Trong cái thế
giới thu nhỏ này, người đôi khi chẳng ra người, có kẻ lăm le đạp lên trên xác
bạn bè khi xưa để được chút đặc quyền, có người chực chờ tố cáo vài câu nói vu
vơ của bạn tù để được chấm điểm tốt . . . thậm chí có thằng còn (giả vờ) đề
nghị chỉ xin nên ăn cháo (trong khẩu phần ít oi hàng ngày) để dành lại gạo dự
trữ. . . Tôi khinh bỉ bọn áo quần lành lặn mà tâm hồn ghẻ lở bao nhiêu thì càng
kính trọng những người rách rưới bề ngòai mà là kim cương bất hoại bên trong
bấy nhiêu. Thầy Lê Vĩnh Tráng là tiêu biểu cho mẫu người kim cương bất hoại ấy.
Nên thỉnh thoảng có dịp tôi thích chuyện vãn hỏi han chuyện trên trời dưới đất
bên lon trà nấu bằng lon guigoz vàng sẩm với thầy và bè bạn loại nhắm mắt qua
sông như tôi. Trong khi đó, có vị thầy ngày xưa là thầy dạy mình thì tôi chẳng
buồn ngó tới bởi đã . . . hối cải vượt quá chỉ tiêu, uốn lưng đến mọp người
trước thời thế.
Có anh em
kể lại, trong một lần thăm nuôi của tù nhân trại này, bến đậu để thân nhân chờ
thăm nuôi nằm ngay chỗ tù nhân được tắm trong ngày nghỉ chờ thăm nuôi, thầy đã
phải xin phép mọi người đang có mặt tại đó, để túm lại phần rách rưới của mình
chạy về trại! Tôi tưởng tượng cái hình ảnh bi thương ấy của thầy mà ứa nước
mắt, vì trong đó nó biểu hiện cho cả một kiếp đời của chúng tôi những tháng
ngày tang thương dâu bể!
Gần cuối
năm 77, tù nhân trại Kinh Cũ của D20 bị đưa đi lao động trong một xưởng cưa ở
Sóc Trăng xẻ gỗ cho quản giáo, tôi có phần ưu tiên hơn vì đây là xưởng cưa của
một ông anh bà con, và hơn hết tôi làm được nhiều việc của xưởng như vác cây,
quay thước, đóng nạp, đẩy cưa . . . nôm na là tôi rành việc như một nhân công
lành nghề. Chẳng là nhà tôi ngày xưa gần đó, tôi hay lân la qua trại cưa này
làm để kiếm tiền trong mùa hè nên tôi rất rành rọt mọi việc, với tôi mọi việc
chẳng có gì khó nhọc. Chỉ tội nghiệp những nhân công bất đắc dĩ làm công việc
này, trong đó có thầy Tráng, khi thì bị trẹo lưng vì vác cây không đúng cách,
lúc lại đóng búa vào tay, hay bị mảnh cây văng trúng . . . nhờ biết công việc
và quen với đám nhân công thiệt ở đây, lâu lâu tôi còn bày cách cưa nhẹ một vài
đường cưa phần cây của quản giáo để giao cho nhân công thiệt bán lấy tiền mua
café cho cả bọn. Một trong người bạn thân của tôi việc chia chác này là
Sơn Phước Thành, sau này đã chết oan uổng trong một vụ bắn nhau giữa bộ đội và
công an ở Sóc Trăng mà chắc nhiều người chưa quên.
Và trong
những ngày tháng này tôi học được nhiều lắm kinh nghiệm sống, cách ứng xử với
kẻ nắm quyền sinh sát, với bằng hữu còn giữ tình nghĩa ngày xưa, với bè bạn nay
đã không còn là bè bạn . . . Những ám ảnh của bị báo cáo, bị đem ra phê
bình, kiểm thảo . . . làm chúng tôi co cụm lại trong cái vỏ nhẫn nhịn, nhẫn
nhục với nhiều kẻ . . .nhẫn tâm! Nên cuối cùng tôi cũng lại chỉ thích lâu lâu
kiếm được café, thuốc lá, rồi bọn tù nhân lớn, nhỏ nhâm nhi thiên hạ sự cho nhẹ
. . . ưu phiền. Tôi lại có dịp chuyện trò với thầy hơn trong những ngày này. Và
biết không, mơ ước của ông thầy ngày đó, chỉ là: “Ước gì sau này khi được
thả ra, em biết không, thầy chỉ mong có đủ tiền để mua một cái chài cá để kiếm
cái ăn nuôi gia đình qua ngày”! Ôi sao mà cái ước muốn nhỏ nhoi mà vĩ đại quá!
Cái ao
ước này, 38 năm sau, không biết thầy còn nhớ không thầy Lê Vĩnh Tráng, người sĩ
phu đất Quảng?
Phan
Trường Ân
Tháng
9/2013