HỌP MẶT HD XUÂN ĐINH DẬU NK 68-75 NGÀY 04/02/2017

CÙ LAO DUNG

                                               

(bút ký)                                                                   Hoài Việt

Tôi mân mê cuốn Đặc San Hoàng Diệu 2014, như đã từng mân mê những trái cây căng tròn ngọt lịm của vùng Kế Sách, nơi tôi có một thời để sống. Ngồi lật từng trang, chăm chú từng chữ, vì đây là “của Sóc Trăng”khá hiếm hoi, đã khiến lòng như luôn thèm khát ưóc mơ. Đọc tới đây. có thể vài bạn mình nghi ngờ “lão gìa” nầy hơi quá hay đã lẩm cẩm rồi. Xin thưa rằng không,hoàn toàn không, nếu có chăng là tôi bị cuốn hút vì những dòng chữ,những bài thơ,những nội dung phong phú vô cùng.Bài nào cũng hay,cũng đáng đọc .Xin cho tôi được cảm ơn các tác giả, đặc biệt anh bạn Nguyễn Hồng Phúc, qua bài viết “Về Thăm Miền Tây”, đã giúp mình như sống lại nơi vùng đất Sóc thân thương, nơi  tôi sinh ra, với những ngày lớn lên đầy ấp kỷ niệm.Ôi,những kỷ niệm buồn vui như quyện chặt vào từng hình ảnh đó đây cũng như cuả ai đó, từng điạ danh và cả những món ăn mà ông bạn H.P đã miêu tả khá tỉ mỉ... Riêng về điạ danh, bốn câu thơ:

                            Có bao giờ em về thăm nơi ấy

                            Một miền xanh biêng biếc hai mùa

                            Có bao giờ em nghe tên ấy

                            Cù lao Dung đẹp tựa bài thơ

         Và của anh Lê Đức Đồng, đã khiến mình nhớ lại cù lao Dung, nơi mà:

                            “Em” đã từng sống qua nơi ấy

                            Khi tuổi thơ mưa nắng bốn mùa

                            Cù lao,tên đẹp như con gái

                            Nhớ Dung hoài,như nhớ nàng thơ.. .

         Thật vậy, mình đã sống tại đây, tại một nơi lúc đó còn là “khỉ ho cò gáy”  năm 1945,lúc  vừa tròn  hai tuổi.  Ôi thời gian  quả tựa bóng câu, thấm thoát đã gần bảy mươi năm rồi, thế mà bao hình ảnh như vẫn còn rõ nét. Mình không muốn viết lại những gì mà anh H.P đã làm, vì anh đã viết quá hay và khá đầy đủ. Cũng không thể ghi ra chi tiết, điạ lý hình thể của “một miền xanh biêng biếc”, vì lúc ấy mình còn. . tắm truồng(xin lỗi), Và cũng vì. trong khoản gần sáu năm, chỉ quanh quẩn trong phạm vi đường kính khoản 100 thước, ngoại trừ những lần theo ba đi ruộng, hay theo cô tôi ra bờ biển(đúng hơn là sông Bát Sắt- Hậu Giang) để canh chừng tàu Tây khi muốn giả gạo, vì nếu nghe tiếng chày vang vọng, họ sẽ bắn “mọt chê” .Thỉnh thoảng tôi cùng người thân len lách  trong lùm hay dừa nước đến  thăm người bà con sống gần đó khoản vài trăm thuớc. Đến năm tám tuổi , “vượt thoát” khỏi nơi đây,chưa một lần có cơ hội trở lại,và chắc chẳng bao giờ. Ngày nay, ngồi mở internet, thật dễ dàng tìm lại nơi xa xôi ấy, mà giờ đây đã đô thi hoá rồi, có đường xe, nhà ngói. phố xá, thật không thể tìm lại  hình bóng ngày xưa, cách đây gần bảy mươi năm.

 

 


                 Hình con sông Hậu,

                  (nơi chảy ngang cù lao Dung)

Trước tiên, đề cập đến “một miền xanh biêng biếc hai mùa”, tôi đã cố tìm tòi,nhưng đến nay vẫn chưa hiểu vì sao cù lao tên lại đẹp quá. ? Và rồi qua tìm tòi, được biết ngoài tên nầy, cù lao còn mang tên Huỳnh Dung Châu, Hồ Châu, Kắc Tưng, cù lao Chằng Bè(tên một loại chim). Cùng theo vận nước nổi trôi, qua bao lần thay đổi đổi thay, đến năm 1975 vẫn mang tên củ (trên phương diện hành chánh, là xã An Thanh Nhứt. . ) và thuộc Quận Long Phú, tỉnh Ba Xuyên. Đến năm 2002 vẫn còn là cù lao Dung thuộc huyện Long Phú. Mãi đến ngày 30/4/2003, nơi nầy(gồm cù lao Dung, cù lao Tròn và cù lao Cồn Cộc)trở thành một huyện của tỉnh Sóc Trăng,với diện tích 23.608 mẫu ,dân số 62.931 ngưòi(2009) Xét về ‘gốc tích”, qua cái tên Huỳnh Dung Châu, biết đâu là tên một cô gái. Nếu không lầm, theo nghiã tiếng Hán Việt,“châu” là một vùng đất, Huỳnh là họ và Dung là tên . . Vào thời xa xưa cách đây trên bảy mươi năm , mình đã từng bôn tẩu tạm . .trốn nơi nầy, cũng như trước đó trên hai trăm năm , ông chúa Nguyễn Ánh đã . . cũng tạm trốn nơi đây. Cù lao Dung là vùng đất hoang sơ, với nhiều con rạch nhỏ len lỏi vào khu rừng bần và dừa nước cùng các cây tạp khác.. . là nơi trú ẩn khá lý tưởng. Kể ra, mình cũng có cái vinh hạnh được lẩn trốn một nơi mà trước đó, ông vua đã “ẩn” mình (nên gần vùng nầy có địa danh Long Ẩn). Trong thời gian “long ẩn”,chắc thế nào ngài Nguyễn Ánh cũng đã phải “mê mệt” món cá ngát nấu canh chua cùng bần chín,hay món bần non cặp cùng mắm sống, và chắc chắn ngài ngự cũng đã mê mệt nàng thôn nữ căng phồng chắc nịt tên . .Huỳnh Dung(?). Kể ra làm vua chúa sướng thiệt, đến đâu cũng được thần dân quì lạy  và chiêu đãi cho đủ thứ, và để ban ơn,vua chỉ cần ra chiếu chỉ nơi đó được xử dụng chữ “long” là xong. Và đia phương nào có con gái được vua “ban ơn mây mưa” tên cô gái được vinh hạnh chọn thành điạ danh, như trường hợp nàng Huỳnh Dung. Chuyện “đại sự”xin lạm bàn cho vui, cùng liên quan chuyên nầy, những cây bần cũng được thơm lây, vì trong thời gian bôn tẩu, ngài Nguyễn Ánh thưởng thức món mắm sống kẹp bần non ngon quá, rồi lại nhìn những lá bần mộng nước, thon dải tợ như lá liễu, bèn ban mỹ danh cho cây bần thành  “thuỷ liểu”.Xin thay mặt cho những cây bần, kính cẩn cảm ơn đã được ngài ân sủng,ban cho mỹ danh”!.

         Trở lại câu chuyện đời tôi, vào năm 1945, vùng Sóc Trăng, xảy ra biến cố “Miên dậy,cáp duồl”( có nghiã nguời Miên nổi lên, giết người Việt”)Xét về căn nguyên, vì sao xảy ra sự kiện “cáp duồn” thật dài dòng, chì có điều cần phải nêu lên là do 2 bên Việt Minh và Pháp ,mà người dân phải vạ lây. . . Sóc Trăng, cùng với Trà Vinh là hai tỉnh có khá nhiều người gốc Miên(Cam Bốt), ít ra cũng khoản 25 phần trăm so với người Việt,và hai dân tộc sống chan hoà,không có gì mâu thuẩn sâu sắc.Vào năm 1945, xảy ra chuyện “phong trào Việt Minh”cướp chánh quyền,trong giai đọan thật ngắn(mà người Cộng sản gọi là “cách mạng tháng tám”) ; khi người Pháp  lật được thế cờ, họ lại gây mâu thuẩn giữa 2 dân tộc, xuí giục ngưòi Miên “tiêu diệt Việt Minh”.Người Miên nghe theo, và  thật vô cùng oan nghiệt cho người Việt nào cũng có thể là”Việt Minh..Một số người Miên xấu  cũng thừa cơ hội cướp bóc tài sản và chặt đầu của người Việt. Vùng quê tôi ở, khu chợ và vùng xung quanh là người Việt cùng người Hoa, xa vài cây số tứ bề là các sóc người Miên.Tôi được nghe kể lại, trong thời gian có nạn “cáp duồn”, vaò mỗi buổi chiều, một số người Miên tụ tập, ăn nhậu, rượu chè say sưa,xong rồi họ kéo về các xóm  có người Việt. Trên tay họ,là những chiếc phản kéo ngay, phản là loại dụng cụ, với lưõi dài khoản 8,9 tấc, bề bản gần một tấc, thật bén để phát cỏ. Họ đi lùng bắt đàn ông Việt và mang ra cầu sắt ngang sông chém hay . . chặt đầu. Ngày nào cũng có cả chục ngưòi Việt bị giết chết như vậy. Có điều là nếu kịp nhờ ngưòi Hoa đứng ra bảo lảnh , sẽ không bị giết. Lúc nầy gia đình tôi đã thu hoạch lúa, tính ra cả chục ngàn giạ(do chính công sức của gia đình), được khá nhiều người Miên tốt đứng ra, cũng lập thành nhóm với vũ khí che chở. Nhưng rồi liệu bề không xong, đại gia đình tôi phải bỏ của cải gia sản,bồng bế nhau chạy giặc “cáp duồl”.Cũng nhân đây, xin ghi lại đôi dòng về ông tôi. Xuất thân là một con nhà nghèo, trong đệ nhất thế chiến, phải đi lính cho Tây, sang tận Pháp. Hết chiến tranh, vài năm sau trở về, chí thú làm ăn ,gia đình trở nên khá giả, có của ăn của để. Nghe kể lại, tuy là thời thực dân cai trị, nhưng cuộc sống người dân cũng khá bình yên, chẳng có lắm chuyện cường hào ác bá(như tuyên truyền), ai lo lam lủ làm ăn thì cũng không phải đói. Ông tôi “đi lính Tây” thời đệ nhứt thế chiến. trở về, nghe đâu lên tới chức “Thầy đội”(hay gì đó, không chắc lắm). . .Gia đình tôi gồm ông bà, cha mẹ ,người chú , hai cô và tôi cũng xuống ghe chạy về Sóc Trăng, nhưng  giữa đường “được người ta” khuyến khích đi theo. . giải phóng. (ôi,thật tội nghiệp thay cho từ “giải phóng”) Thế là phải theo người ta về miệt cù lao,vùng “giải phóng”lúc đó.Gia đình chúng tôi vượt qua sông Hậu, đến cù lao,  len lỏi  theo con rạch nhỏ, khi cảm

             


     


Đám dừa nưóc

                   ( trên 70 năm trước, nhà tôi trong đám dừa nưóc như thế nầy)

 

thấy xa sông Cái là dừng lại , nơi bốn bề toàn dưà nước và bần, cùng rừng rậm với cây dại, ô rô cốc kèn. . và với những “bạn bè” chào đón là muổi mồng và bù mắc, cùng “khỉ ho cò gáy”. Cuộc sống khởi đầu, nghe ông bà kể lại thật khó khăn trăm bề , trước tiên phá rừng ,đào đất đấp nên, đốn cây làm nhà, và lợp bằng lá dừa nưóc ,kế tiếp là tìm nơi rừng thưa phát quang, trồng lúa. . .Vào lúc được bốn năm tuổi,bắt đầu hiểu biết, tôi nay vẫn còn nhớ vanh vách những hình ảnh ngày xưa ấy. . Tuy gia đình tôi trăm bề vất vả, nhưng có điều  sướng là tự do “lấn đất dành rừng”, mặc tình khai phá bao nhiêu tùy sức,không ai  bon chen hay phải xin phép cấp sổ đỏ đen gì cả. Cũng nhờ  có chuẩn bị, nên những món căn bản cho cuộc sống,gia đình lo khá đầy đủ, nhưng ngày lại ngày qua, những thứ ấy cạn dần, gia đình tôi phải sống  như tách biệt với thế giới bên ngoài,lúc nầy là chợ Quận L.P. Đường về Quận không xa, chỉ cần vượt qua sông Cái, lén về chợ là xong,nhưng khó khăn nguy hiểm vô cùng, vì ngoài sông Cái thường tàu Tây canh chừng,sẵn sàng nhả đạn.(bấy giờ, cù lao Dung là vùng giải phóng,ai sống vùng nầy là Việt Minh) . Về tới chợ Quận không khéo bị phát giác, dễ bị công an (một ngành của cảnh sát chánh phủ quốc gia thời nầy) bằt cũng dễ bị tội tù. Mà ngược lại, mình lẻn về thành (chợ Quận) không khéo cũng bị “người ta” kết tội . . về thành báo cáo, là “điềm điệp” cho quốc gia, cũng dễ bị cho đi mò tôm. Thiệt tội cho gia đình tôi, cũng như biết bao đồng bào phải chịu cảnh “một ách đôi ba tròng”.Vì vậy, gia đình phải sống trong cảnh thiếu thốn hoang sơ như “Lổ Bình Sơn”, hết dầu lửa phải xài dầu chai hay mủ mù u, không đường thì nấu mạch nha làm chất ngọt (mà lại ngon nữa),không me nấu canh chua đã có bần chín,trái giác(một thứ giống như dây nho, nhưng trái chua áí)., không mở chiên cá, xài tạm mở của gà vịt hay của cá.Ông và ba tôi ghiền cà phê, phải dúng tạm nước cơm cháy khét . . . Riêng phần tôi, được người thân dạy cho cái chữ bằng cách lấy than(thay cho phấn)vẽ chữ  trên miêng ván, hay kẽ trên nền đất . Nhờ vậy mà ngay từ nhỏ cũng biết đánh vần, biết đọc câu “công cha như núi Thái Sơn”. Nhưng rồi, không lễ cứ chịu mãi cảnh thiếu thốn, ba và nội tôi phải liều thân lẻn trốn về chợ Quận, mua những thứ quá cần thiết cho cuộc sống,như đường,dầu lửa, dầu chai trét ghe, mở chiên cá,tiêu tỏi . . và đặc biệt một miệng chài cá, đồng thời cũng phải bán những đôi chiếu do bà và hai cô dệt để có tiền. May mắn, thời gian sáu năm, bao lần lẻn về thành, đều không bị tai nạn nguy khốn chết ngưòi. Sau mỗi lần về thành mua sắm, nhà tôi như như mở hội “ăn”. Cả nhà quây quần thưởng thức những cái bánh da lợn, bánh cam, hay những cục thịt quay tươm mở, ông và ba nhâm nhi cà phê cùng tách trà ra chiều sảng khoái. Và nhà tôi lại có thêm ít ra hai hủ đường chảy tổ bố, một thùng dầu lửa to cùng mở, đậu và riêng cho tôi một hộp phấn đầy ấp.. .

Ngày nay, cù lao Dung thành một huyện, có đường xe, tàu đò, chợ búa đủ cả, nhưng vào thời 1945 , là chốn hoàng vu , khắp cả vùng toàn rừng rậm ,dừa nước, đặc biệt những rừng bần xanh mướt., chẳng có đường xá phương tiện giao thông.Muốn đi phải băng ruộng đồng,(mà rất ít khi, có ai cần  thăm viếng tới lui). Còn nhớ cả vùng mênh mông,chỉ có độc nhứt một nhà bà con cách xa khoản mấy trăm thước Khi hết gạo,dùng xuồng ra bờ sông canh chừng tàu Tây khi cần giả gạo.Nhớ có lần vừa ra mé sông,đã nhìn thấy chiếc tàu  với mấy tên lính đội mủ chào mào đỏ chói, cô tôi và tôi nín thở, nằm im từ từ nghiêng xuồng ngả mình xuống mé sông núp bên lùm ô rô đầy đặc.Rất may, nếu bị phát giác, chúng quạt đại liên khó bề sống sót.Kể đến đây, bỗng nhớ mà thương con gà trống, cả đàn gà hàng chục con mái,chỉ duy nhứt một con trống đảm đương thiên chức truyền giống. Thiệt sướng chết đi được, nhưng mỗi sáng nó phải chịu cảnh khổ sở ,bị đè đầu trong cái rổ nhỏ.Nếu không nó lại gáy, và tàu Tây nghe tiếng lại nả “mọt chê”. Trưa trưa,không khí loãng ra,  thả nó , gà có gáy cũng không vang đội đi xa. Sau khi được. “giải phóng “khỏi cái rổ, mặt trời lên cao gà không thèm gáy nữa.Vả lại, chàng gà trống còn phải dành thời giờ  rượt đuổi thực hiện quyền “làm chồng” cả chục gà mái cũng đủ mệt cầm canh..Tuy mệt ,nhưng mỗi lần “làm tròn thiên chức”, chú gà trống  lại hứng chí,vổ cánh gáy to: ò ó ó o ò o .o . . .Chỉ có mấy tiếng đó thôi mà ông tôi diển dịch ra  như sau: “ đời chỉ có thế mà thôi. .thôi”. Lúc bấy giờ còn bé , nào biết “chuyện đời’ là gì đâu, nhưng cũng thấy vui vui.Sau nầy lớn lên,hiểu ra thì chán chết , làm gì mà “nhanh như gà”, lại bày trò gân cổ gáy. . . Ngoài đàn gà vài chục con lớn nhỏ, còn cả bầy vịt xiêm ú na ú nần,với chỉ một chú vịt trống luôn bước đi phụt phịt, với cái mào đỏ chót . Cũng như bên phía đàn gà, chỉ độc nhứt một “ông vua” vịt trống mà thôi, những con vịt trống tơ quả là khó sống, vì sẽ bị con cồ cắn xé xua đuổi để độc chiếm quyền làm chồng. Một vài con vịt trống tơ, muốn sống phải “biết thân biết phận”, tách ra riêng, tìm cách “rủ rê” vài con vịt mái tơ . Gà vịt nhiều, to mập vì thức ăn dư thừa,ngoài lúa thóc, cá tép nhỏ có cả những con tôm kho tàu được vứt bỏ, vì nhiều quá ăn không hết. Gà vịt nuôi thả lang, mặc tình chúng đi đâu thì đi, chẳng sợ ai bắt trộm (vì chẳng có gia đình nào sống gần cả). Nói thế , thật ra cũng có những tên trộm chuyên ”bắt cóc” mấy chú gà con, đó là diều và chồn cáo. Tôi không sao quên đưọc hình ảnh gà mẹ xoè cánh che cả đàn con khi nhìn thấy diều bay lượn rình mồi từ trên cao,và tôi cũng không quên hình ảnh gà mẹ nhào ra chiến đấu với diều.Thật là những hình ảnh khó quên, gà có đôi mắt ngang hai bên, phải nghiêng và ngốc đầu nhìn lên trời khá vất vả. Diều là con bay lưọn khá nhanh và đôi mắt rất sáng, chúng lưọn lờ trên cao, canh chừng và phóng xuống nhanh như sao xẹt,  nhiều lần gà mẹ đành đau lòng nhìn con bị cướp đi.. . Chiều về, phải lùa gà vịt vô chuồng, đóng cửa cẩn thận ,đề phòng  bọn trộm đêm là lủ rắn và chồn cáo. Kẻ thù nầy ghê gớm lăm, chúng hay hoạt động về đêm,và thường chọn những con gà giò nho nhỏ ngon lành.Cũng có khi bọn chồn cáo  bị dính bẩy, và thế là nhà tôi có dịp đồi món. Chồn mướp mà xào lăn thì ông và ba tôi cũng phải hết cả lít đế ,nhứt là chồn mướp thịt lại thơm mùi mướp nữa chớ. Riêng về khỉ thì bị chê, vì thịt dai và hơi hôi,nên không được ưa chuộng, vì vâỵ hiếm khi nhà tôi tìm cách bắt chúng. Thế là bọn nhà khỉ nhơn nhơ đánh đu trên những cây bần quanh nhà như chọc tức người ta và  chẳng biết làm gì hơn là. . . làm trò khỉ..

Cuộc sống gia đình tuần tữ trôi qua, khá buồn tẻ và nhàm chán,nếu không có những lần . . chạy giặc. Lâu lâu, bọn Tây lại mở cuộc ruồng bố.ngoạì những lần chúng từ ngoài sông Cái câu “mọt chê” vô.Gặp phải và biêt trước những trận càng lớn, cả nhà kéo nhau chạy xa, có lúc gần tới Bát Trang(thuộc Trà Vinh).Khi gấp quá, cả nhà lẩn trốn vào những đám dừa nước luôn dầy đặc gần bên , hoặc cấp thời, cả nhà chạy và “dấu” tôi trong đám ô rô cốc kèn đầy kiếng và gai gốc. Lúc sợ, được nhét vô lùm không sao, khi hết giặc,  kéo ra, gai đâm rướm máu nhiều nơi.Những lần chạy loạn như vậy, thường ba hay ông cỏng tôi trên vai, tay cầm vài món cần thiết,nhưng thường là miệng chài và cây cưa.  Ngoài ra, lâu lâu có dịp vui vui, nhà tôi được trở thành “rạp hát”cũng nhộn nhịp vô cùng.Chẳng biết từ đâu, vào buổi chiều người ta qui tụ một số người lớn và khá nhiều con nít, một cái màn được kéo lên, với cái đèn “măn sông”sáng trưng. Tôi không còn nhớ người ta có hát vọng cổ hay không,nhưng  chắc chắn có màn “hát hình”,tức dùng bàn tay tạo hình con nầy con kia hay hình người phía sau tấm màn, rọi đèn. . .Xem chừng con nít khoái lắm,vì nơi chốn nầy có gì vui lạ đâu.Đặc biệt là các màn nhảy  cùng bài tân nhạc với tiếng đàn mandoline, mà trong đó bài hát ,chẳng biết tựa là chi,nhưng tôi không bao giờ quên lời (dù đã trên  70 năm).Đó là:”anh em ta vui hát trên đồng hoa, đây bao la hưong sắc hoa chan hoà. ,vân vân và vân vân.”.Và thêm bài nữa là”sol đố mì”, dường như là”ăn khoai lang là khoai nưóng lùi. . “ Xin lỗi, biết có phải thế không,nhưng nếu trên đời nầy, ngoài ba má ông bà tổ tiên, đối tượng mà tôi nhớ mãi là khoai, không phải khoai lang ,mà là khoai mì. Món nầy ngoài bắc gọi là sắn, mà lại là sắn lát phơi khô,những thành phần cựu tù chúng tôi  “ngán tới cổ” , ngán nhưng là cứu tinh trong những ngày đói khát.Lúc đói, một khúc khoai mì là “ước mơ huyền thoại”. Và dường như định mệnh an bài, bản nhạc “sol đố mì”(trong nầy có MI là điềm báo trước) sau nầy dân Việt có lúc phải ăn mì. . . Trở lại câu chuyện, lúc đó, thiệt tình chẳng hiểu biết chi nhiều,nhưng rõ ràng cả nhà tôi phải nai lưng làm gà vịt,nấu  nướng vất vả. Và điều đáng lo nhứt nghe ông bà nói lại, mỗi lần như vậy, người thân lo sợ vô cùng. Nếu đang hát, phía quốc gia biết được sẽ câu “mọt chê’ hay mở cuộc bố ráp, nếu không chết vì bom đạn phía bên nầy, thì sau đó, có thể bị “bản án” cuả bên kia vì bị nghi ngờ đã ngầm báo tin cho giặc. Đàng nào cũng có thể bị . . tiêu xương mạng. Thật may mắn, chưa lần nào bị cả, nhưng tôi nhớ rất rõ, khi “văn công” trình diễn luôn luôn có người ngồi kề đèn măn sông, với cái thúng to, sẵn sàng chụp kín nếu có động tịnh gì.

Trong những ngày sống nơi “huỳnh dung châu”, bên cạnh những thiếu thốn, cũng có vài thứ luôn dư thừa là chồn, rắn rùa, cùng tôm cá. Những thứ con nầy thật chẳng biết “kế hoạch gia đình”chi cả, mà mặc tình . . .tình tự với nhau, sinh sôi nẩy nở. Bọn khỉ tự do nhảy múa, đánh đu trên những nhánh bần, rắn rùa trong ruộng trong lùm, cá tôm mặc tình tung tăng dưới nước.Chỗ nào có nước là có cá, cái ao sau nhà mỗi lần mưa nước đục, tép bạc và cá chốt nổi quơ râu, chỉ cần lấy rổ hớt lên,nhưng không thèm ăn vì nhỏ quá, mắc công làm. Cá tôm dưới sông dư thừa, mỗi một hai ngày, ông và ba tôi đi chài, mang về khoản một hai chục ký cá tôm đủ thứ. Ăn không hết lại phải phơi khô hay làm mắm,lại thiếu lu khạp chứa.Lu khạp phải dành chứa

         



 cá thòi lòi.

(loại cá có cặp mắt lòi lên cao,nhưng thịt rất ngon)

 

 


 

Bông trái bần

(Bần là loại cây gổ tạp, có thể cao 10 hay 20 mét.,thân chia nhiều nhánh,lá  giống tợ lá liẻu,như mộng nưóc.

Cây có thể sống nơi nưóc ngọt,măn,lợ. Bông mới nở, màu đỏ khá đẹp, trái non thật chát,nhưng chín lại chua

,dân quê miền nam dùng nấu chua khá ngon.Chuá Nguyễn Ánh đã ban  tặng tên”thuỷ tiên” cho cây nầy).

 

 nước mưa . Riêng tôm thì nướng luộc ăn tươi, kho tàu,ăn một hai hôm không hết lại bỏ đi  cho gà vịt ăn . Cá thì đủ loại,lóc, trê,chẻm,lăng,ngát, đặc biệt cá ngát , hình thù tương tự như cá trê trắng,nhưng dài đòn hơn và luôn to mập,dường như chúng ăn bần chín mà mập ra. Không biết có phải thế không,nhưng cá ngát mà nấu chua cùng bần chín,đến vua Gia Long cũng phải chảy nước miếng. Ăn hoài một thứ cũng ngán và chán, nhà tôi lại tìm món ăn khác là cá thòi lòi, Gọi là cá thòi lòi, vì chúng có đôi mắt khá to và lòi lên,loài nầy  trung bình to bằng chân cái,dài khoản một gang tay,thường sống trong hang dưới bùn, ba tôi dùng lọp làm với lá dừa nước, úp trên miêng hang, dọc theo bờ sông Cái. Sáng ra, lúc tôi khoản bốn năm tuổi, đươc cho đi theo,mang theo cái giỏ nhỏ,lúc về,  mang hết  nổi vì quá nặng,đầy cá.Cá nầy kho tiêu ăn với cháo trắng thì không gì ngon bằng.Thiệt tình không muốn cà kê chuyện ông vua có số “bôn tẩu”,không khéo bị mang tội ợphạm thượng khi quân”, nhưng hầu như miền Nam nơi nào cũng có dấu chân ông. Nghe ông bà kể lại, vùng Sóc Trăng, nơi Lịch Hội Thưọng qua Vĩnh Châu, có con sông Pha. Pha là tên bà phi nào đó của vua Gia Long đã qua đời tại đây? Và như trên đây đã đặt nghi vấn, có thể ông vua nầy có lần “tạm trú” và đã “ban ơn mưa móc” cho cô thôn nữ tên Dung, do vậy, cù lao nầy có tên là “huỳnh dung châu”.Và cái tên Quận Long Phú chắc cũng do vua ban tặng , cũng nên ?

Chuyện quê nhà năm xưa,biết bao  điều phải kể lại, bao kỷ niệm khó quên , đặc biệt cù lao Dung,nơi tôi đã trải qua những ngày được sống và lớn lên trong tình thuơng yêu, đùm bọc của ông bà,cha mẹ , cũng vì là đứa cháu nội duy nhứt cùng  chạy giặc , lại là cháu đích tôn.  Nhưng rồi thời gian cứ trôi, chẳng lẽ chôn chặt cuộc đời nơi “khỉ ho cò gáy”, cứ mãi nhìn lũ khỉ ho hen và làm trò khỉ mãi sao, tuổi tôi càng lớn phải được đến trường, và người chú trên 20, hai cô đã quá tuổi cập kê.   Thế là lại tìm cách tự giải phóng , tạm biệt vùng đất “một màu xanh biêng biếc hai mùa”.

 Hôm nay, đọc cuốn Đặc san D.H 2014, khiến có dịp nhớ lại.Xin cảm ơn tất cả, cảm ơn anh Hội Trưởng dễ thương và đẹp trai P.T.A, cảm ơn ông anh H.P,  anh L.Đ Đ, cô TT.CH. . . Riêng về xứ cù lao Dung,  càng khó quên. Xem báo  trên net,và cả những tài liệu quê nhà, mỗi khi nhìn thấy chữ Sóc Trăng, Long Phú  hay cù lao Dung tôi bỗng như chùn xuống, nhớ nhung.Tin tức liên quan vùng đất quê tôi, chẳng mấy khi bỏ sót.Đọc kỷ, xem tới xem lui đề nhớ,để thương và để buồn nữa.  Hãy thông cảm, vì tuổi già hay tìm về quá khứ.  Còn nhớ rất rõ, khoản năm 2005 đọc trên tờ báo T.T (trong nước),  được biết chỉ nội cù lao Dung có khoản 200 cô gái lấy chồng Đài Loan.  Cũng có gia đình nhờ con gái “lấy chồng ngoại”, cất  nhà ngói, nhưng tỉ lệ là bao.??? Và sau đó, phong trào lấy chồng ngoại, nào Đài Loan,  Đại Hàn, Trung Quốc, Mã Lai, Tân Gia Ba. . .Ngày  xưa, từ những mái tranh ngoài vọng ra lời hát ru con

                            Má ơi, đừng gả con xa

                            Chim kêu vưọn hú biết nhà má đâu. .

Ngày nay, lời hát ru con đã ít nhiều thay đổi;

                            Má ơi, đừng gả con xa

                            Gả con đi Mỹ hay Ca Na Đa được rồi.

Mỗi một cô “lấy chồng xa xứ”, đều ít nhiều đễ lại cảnh đau lòng cho những chàng trai phải thẩn thờ

                            Tìm em như thể tìm chim

                            Chim bay biển bắc, anh tìm biển đông

                            Tìm chi cho phải mất công

                            Đài Loan, Hàn Quốc,em. . dông mất rồi.

Ôi, dù . dông mất theo chồng, hay “ô đi ghe”, hay “ho hen (H.O). đoàn tụ, tất cả rồi cũng cùng chung số phận làm “đàn chim thiên di”. Buồn.!!!

                                                                                                      

 


NHỚ TẾT QUÊ XƯA-TẾT THA HƯƠNG-NGÀY XUÂN KHAI BÚT

 



Tôi nhớ ngày xưa, ở quê tôi                Trước Tết mấy ngày đâu thảnh thơi

Tết đến vui ơi quá là vui                    Lo nồi bánh tét”mệt quá chời”!

Mấy tháng nhà tôi lo ăn Tết               Đào lổ thật to đun củi bự

Chuẩn bị từ đâu cuối tháng mười       Nấu suốt một đêm bánh chín thôi.

 

Cha tôi xăng xái xới đất trồng           Rồi tới ngày ba mươi cuối năm

Rau cải cùng thêm nhiều loại bông    Cơm canh, ngũ quả đơm đầy mâm

Cúc vàng, đại đóa cùng vạn thọ         Tất lòng thành kính, ông tôi khấn

Cây mai lặt lá khoản hôm rầm           Mời thỉnh tổ tiên về vui chung.

 

Bày gà ít qua không đủ đâu               Đêm đến giao thừa ầm tiếng pháo

Mẹ tôi nuôi thúc đàn vịt bầu              Đì, đùng to nhỏ như tranh nhau.

Rượu thì đã ủ đầy một khạp               Bà tôi quỳ khấn bao lời ước

Toàn rặt nếp than mới đẹp màu         Sang năm xin được chút sang giàu

 

Rồi tháng mười hai đến quá mau       Mùng một tranh nhau lạy ông bà

Áo quần chục bộ chớ ít sao                Mừng tuổi xong rồi tới mẹ cha

Ông tôi một bộ đi ăn giỗ                    Con cháu mặt mày trông hớn hở

Thằng út ưu tiên hai bộ màu              “Lì xì toàn tiền mới không hà!”

 

Nhà tôi được quét màu xanh lợt         Giờ xuất hành mẹ ra đúng hướng

Lư đồng đánh bóng thật sáng trưng   Đèn nhang hoa quả kịp lên đường

Hình ảnh ông bà lau như mới             Đi chùa càng sớm càng được phước

Mồ mả cần lo đắp cho xong               ‘sang năm cả nhà mạnh khỏe luôn”

 

Tôm khô củ kiệu năm ba keo              Nay còn đâu vị hương ngày Tết

Mứt me, mứt bí, mứt mãng cầu         Nay còn đâu cha mẹ kề bên

Còn  phải lo lễ đưa ông Táo              Bao năm đất khách, thân lưu lạc

Cùng là cặp liễn đối đôi câu              Hương vị ngày xưa, đâu dễ quên.

 

Xin đọc hết bên trái,  xong sang  phải

                                               

Hoài Việt

 

                   TẾT THA HƯƠNG

        

Tết đến mà tôi đâu có hay

Bao năm lưu lạc đến phương nầy

Tất gì giá lạnh cùng tuyết trắng

Mấy cụm mây buồn lười biếng bay

 

Tết đến quê người sao thấy vui

Tâm tư trĩu nặng mối u hoài

Quê hương vẫn nghìn trùng vời vợi

Mà ngày về còn quá xa xôi.

 

Thoáng nhớ in như mới hôm nào

Mỗi dịp Tết về vui biết bao

Cả xóm chuẩn bị lo ăn Tết

Cô bác cười vui hớn hở chào.

 

Gió Xuân nhè nhẹ lao xao thổi

Nắng Xuân ấm áp tỏa muôn  nơi

Bánh mứt, thịt thà, dưa hấu đỏ

Bè bạn nhâm nhi mãi quên thôi.

 

Xứ người, Tết dến sao buồn quá

Bà con thân thuộc mãi phương xa

Mình Tết, đất trời đâu có Tết

Tết gì, dao lạnh cắt làn da.


                                     Hoài Việt.

 

 

 

 

 NGÀY  XUÂN  KHAI  BÚT

         

                       (thơ vui)                     Tú Cù

         Mừng Xuân, tôi khai bút

         Xin chân thành kính chúc

Tất cả quý bà con

Môt năm toàn hạnh phúc.

 

Chúc quý ông sức khỏe

Vẫn “gân” như lúc trẻ

Cày ngày, rồi”cày” đêm

Làm hài lòng bà xã ¡

 

Chúc quý bà vẫn vậy

Đẹp như thuở xuân thì

Không cần đi mỹ viện

Hút mở bớt mập phì

 

Đừng ham to quá nha

“Si  li con’ không hà

Bơm, độn coi chừng bị

Phải tốn tiền ... móc ra!

 

Các cậu phải siêng học

Đừng ham đi chơi ngông

Đừng yêu cuồng sống vội

Khiến cha mẹ buồn lòng.

 

Các cô khoan ... muốn chồng

Hãy giữ lấy tuổi hồng

Chớ yêu lòng dại dột

Nghe lời”bọn” đàn ông.

 

Bé ti lớn rồi nhe

NHỚ, đừng đòi... bú ké

Ba mẹ thường nhắc hoài

Mùi thuốc (lá)... hôi lắm nhe ¡

 

Ngày Xuân sẽ qua thôi

Góp mấy vần thơ vui.

Ly hương buồn diệu vợi

Cười đi, bà con ơi!

 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual