Hoài
Việt
Quê tôi miền
sông Hậu, tại một tỉnh có sự chung sống
hài hoà, giữa ngưòi Việt cùng khoản 25 phần trăm ngưòi gốc Cam Bốt và 5 phần trăm
người gốc Hoa.. Tỉnh Sóc Trăng,cũng như Trà Vinh ,xưa vài trăm năm trước đã có
một số rất ít ngưòi Cam Bốt sinh sống. Dấu vết minh chứng sự hiện diện của họ là
các ngôi chùa và cây thốt nốt. Ngưòi Cam Bốt hầu hết theo đạo Phật tiểu thừa.
Thưòng mỗi “sóc’của họ luôn hiện diện một ngôi chùa,chúa là nơi đến cúng Phật, và cũng là nơi “gởi tài sản” dành
cho kiếp sau... Và về giống cây họ thích
trồng là cây thốt nốt, trái ngọt như nưóc dừa dùng giải khát và nấu thành đưòng
thốt nột có mùi đặc trưng.. (sẽ có dịp trình bày chi tiết ). Như tại Trà
Vinh,theo thống kê có tất cả khoản 300 ngôi chùa lớn nhỏ, và quê tôi Sóc Trăng
co khoản 100 ngôi chùa. . . Tôi đưọc sinh ra tại Quận Long Phú, theo một nghiên
cứu ,”long” là “rồng” hay “hưng thịnh” và “phú” là giàu có.. Long phú là hưng thịnh
và giáu có. Cũng có giả thiết khác,vì khoàn trên hai thế kỷ trưóc, vào thời”bôn
ba” tìm đưòng khôi phục nghiệp chúa, lẩn tránh sự truy sát của phe Nguyễn Tây Sơn,
chúa Nguyễn Ánh đã đến vùng nầy và đưọc điạ phưong che chở. Đồng thời, trong lúc
tạm cư tại một cù lao -cũng thuộc L.P), chúa đã ban ơn ”mây mựa” (chơ không phải
mưa mốc”) cho một thôn nữ xinh đẹp nào đó mang tên “Huỳnh Dung”, và đã ban ơn
cho địa phương đưọc dùng chữ “long” đặt tên điạ phưong, riêng cái cù lao nơi
sinh quán của cô thôn nữ được vinh hạnh mang tên “Dung”, tức cù lao Dung (nay là
huyện Cù Lao Dung,thuộc tỉnh Sóc Trăng.). Nghĩ thiệt “làm vua chúa” sướng quá.,
đi đâu cũng đưọc kẻ hầu ngưòi hạ, đưọc “đủ thứ”, và để đáp lại, vua chúa ban cho
quyền đưọc dùng chữ “long” là xong... Riêng phần mình, cũng sung sưóng được dưa
hơi vua, vì hơn 65 năm trưóc cũng đã từng chạy loạn và “tạm trú” tại nơi mà trên hai trăm
mấy chục năm, vua Gia long đã từng ... Sau đó, tôi trở về sống lại nơi đưọc
sinh ra và chuyện đã quá lâu, sao tôi vẫn nhớ như mới hôm qua. Lúc nầy, cũng như
hầu hết bà con khác, gia đình cũng tạm đủ
sống, riêng tôi trải qua một thời tiểu học với đầy ấp kỷ niệm. Nay ngồi nhớ lại,
biết bao nhiêu chuyện ngày xưa... Tôi nhớ ngôi nhà lá ba gian, trong đó một gian
làm bồ lúa,mảnh sân trưóc khá rộng, sáng ra, hàng chục gà vịt đủ cở tranh nhau
mổ lấy mổ để những nắm luá vừa vải, ra. Nhớ khoảnh vườn nhỏ trồng rau , với hàng
rào mà những dây đậu rồng, đậu ván, bầu
mưóp xanh mưót tranh nhau bỏ vòi... Nhớ cả con sông nho nhỏ trưóc nhà. Lúc khoảng chín mưòi tuổi tôi đã biết dùng dây câu ném ra
giữa sông, mỗi lần “thăm” dính năm ba
con cá ut là thưòng, có hôm những con cá
ba sa cả ký. Nhớ nhớ nhiều lắm, càng lớn tuổi càng nhớ chuyện ngày xưa đến ray rứt
thèm khát, ước mơ một ngày sống lại... Nhưng có lẽ, hình ảnh tôi nhớ nhiều nhứt
là mái trưòng ngày xưa, nơi đã trải qua
thời tiểu học với đầy ắp kỷ niệm. Từ nhà
đến chợ Quận không xa, và chỉ vài trăm
thưóc đã tới trưòng học, nhưng thường học
trò chúng tôi đến trưóc cả giờ để chơi với
bạn. Những hôm lỡ quên,nghe tiếng trống tựu trưòng vang vọng, ôm cặp chạy một mạch cũng còn kịp... Tôi nhớ mái trường xua, nhớ cả những bài hát ,mà một trong những bài thật dễ thưong,là
bản”Trưòng Làng Tôi” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu sáng tác năm 1948.. .
. . .
Trường làng tôi, hai gian lá đơn sơ
Che trên miếng sân vuông mơ màng. . .
Trường làng tôi, không giây phút tôi quên
Dù cách xa muôn trùng, trường ơi...
Thương quá,
quê nghèo của ông nhạc sĩ, nghe đâu sau đó đã đi theo “kháng chiến” và rồi cũng “than ôi”, chuyện đời không như ông nghĩ. Thiệt đáng tiếc và tôi nghiệp cho ông, cho cả hàng bao muôn ngàn người... Riêng ngôi trường của tôi to lớn hơn nhiều,
không phải hai gian lá đơn sơ, mà là một dảy nhà gạch, lợp ngói đỏ chót... Trưóc
trường khoản sân rộng, với nhiều cây còng
khá to. Suy nghiệm ra, chắc đây là nơi đã có ngôi trường cũ, vào khoảng 1950, thời
chánh phủ ”Quốc Gia Việt Nam’ đã xây lại ngôi trường mới... Thời nầy, học sinh đi học ngày 2 buổi, mỗi sáng
tất cả học sinh tề tưụ trưóc sân long trọng làm lễ chào cờ, đưọc nhìn lá quốc kỳ
màu vàng ba sọc đỏ. Ngày nào cũng vậy, sau lễ chào cờ, ông hiệu trưởng ban hiểu
thị, nhác nhở bao điều, xong học trò
xếp hàng tuần tự vô lớp.dưói “quyền điều khiển” cuả trưỏng lóp, thầy hay cô chỉ
đứng quan sát. Cứ lập lại mỗi ngày,có lẽ cũng chán. . . nhưng hình thức “nhồi sọ” quả
có điều bổ ích, suốt cả khoản đời thơ ấu
của tôi vào thập niên 1950 toàn đuợc xã hội, gia đình và trưòng học ”nhồi’ vào
những điều hay lẻ phải’, giúp học sinh nhớ
đời đời. . .”Tôi nhớ như in, lá cờ vàng
ba sọc đỏ luôn tung bay trước gió, như tung bay trong tâm tư. Vào thời kỳ nầy, lá cờ vàng ba sọc là tượng trưng
cho “Quốc Gia Việt Nam” xuất hiện khắp
Nam, Trung, Bắc (từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau (ngoại trừ những vùng “chưa đươc
giải phóng khỏi “giải phóng”). Đây là lá cờ chính thống của Việt Nam khi Pháp
trả độc lập, vời Đức Quốc Trưỏng là Bảo Đại
và nội các do Thủ Tướng Bửu Lộc, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm điều hành... Do vậy, cờ vàng ba sọc đỏ là quốc kỳ của Việt
Nam, không phải của riêng Việt Nam Cộng
Hoà, (mà khi VNCH bị giải thể, cờ vàng phải mất theo.). Hoàn toàn không phải như
vậy... Cũng nhân đây, xin ghi lại một sự kiện vô cùng quan trọng. Vào tháng
9/1951, Thủ Tướng của “Quốc Gia Việt Nam”là ông Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên
bố chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trưòng Sa trong hội nghị San
Francisco (Hoa Kỳ), mà không gặp bất cứ sự phản bác nào của 51 quốc gia tham dự... Ngày xưa, vào khoản 1950, chiến tranh chưa dứt hẳn, nhưng những tiếng súng cắc
bùm chỉ xa xa đâu đó... Tại miền Nam nói chung, và riêng tại Quận L.P của tôi thật
khá thanh bình, đời sống ngưòi dân tưong đối yên ổn, ấm no, mỗi năm chỉ làm một
mùa lúa nhưng không thấy ai bị thiếu ăn. Lúa gạo không thiếu, tôm cá cũng dư thừa. Sông rạch vùng quê, đến
mùa nưóc xuống, cá ục như cơm sôi. Có lẽ thời nầy”đất rộng, ngưòi thưa” chăng... Bà con lối xóm trong Quận ai ai cũng quen mặt biết tên, kịp đến khoảng 1956, xuất
hiện ‘những ngưòi nói tiếng kỳ lạ”, cà chiếc ghe họ cũng lạ nữa,hơi dài đòn hơn... Thỉnh thoảng những ngưòi nầy xuất hiện, xóm làng tôi từ từ biết ra, đó là “bắc
kỳ di cư”... Thì cũng là đồng bào của mình, nhưng vào thời đó còn xa lạ... Họ sống
trên ghe, chài cá mang ra chợ bán, rồi đi
theo xóm, có ngưòi vào xin mớ củi, thưòng thì vui vẻ cho. Tôi còn nhớ, cũng có
mấy lần họ cứ vào trong sân quơ lấy củi một cách tự nhiên, la thì bỏ đi cũng có
khi nói ngang là ”của rơi chúng ông nhặt”. Rơi thế nào đưọc, củi phơi trong sân... (Xin lỗi, chuyện có sao giờ kể lại, chớ “bắc kỳ di cư 54 là” số một, tất cả đều
là đồng bào)... Chuyện ngày xưa, kể chút cho vui. Sự việc đáng nhớ và muốn ghi lại
trong đây là việc học hành, là ”tình nghiã “giáo khoa thư”trong thế hệ trẻ, cũng
như trong tất cả xã hội miền Nam. Xã hội
trong đó mọi ngưòi sống chan hoà, đối xử cùng nhau đưọm tình làng nghiã
xóm. Hầu như không xảy ra những vụ án đại loại như” rót rưọu không đều bị đâm
chết”, “ trộm chó bị vây bắt, đánh chết, đốt xác cùng chiếc xe, cả nhóm người
thản nhiên đứng xem”,”hai nhóm nữ sinh đánh nhau, xé áo, học sinh nam dùng điện
thọai di động thản nhiên quay phim”... Thời
đó, chánh quyền quốc gia Việt Nam vừa thu hồi độc lập, đã ra sức kiến thiết xây
dựng, cụ thể như ngôi trường tiểu học quê
tôi đưọc xây mới. Việc học hành đưọc tổ chức thật vô cùng chu đáo, tốt đẹp,
nghiêm chỉnh. Về cấp học chia ra: tiểu, trung và đại học. Ở điạ phưong nhỏ, chỉ
có bậc tiểu học, lại chia ra 2 cấp: cấp sơ học gồm lớp “đồng ấu”(cours
enfantin) hay lớp năm, lớp dự bị (cours préparatoire) hay lớp tư và lớp “sơ đẳng (cours
élémentaire) hay lớp ba. Cấp tiểu học gồm lớp nhì một năm (cours moyen
première anneé), lớp nhì năm thứ hai (cours élémentaire deuxième année) và “lớp nhứt”(cours supérieur). Học xong lớp
ba, phải thi tuyển để vào lớp nhì... Cuối lớp nhứt, sẽ thi lấy bằng”sơ tiều tiếng
Pháp”, sau đó gọi là bằng ”tiểu học”. Thơì
nầy, điạ phưong của tôi cũng như đa số các nơi khác, thường mỗi Quận chỉ có một
trưòng tiểu học, các làng có thể có trường sơ cấp (chỉ dạy đến lớp ba), thông
thường là lớp đồng ấu. Tại các tỉnh, thường
chỉ có một “trưòng tiểu học lớn”(có nhiều lớp nhứt)... Đại khái là vậy, nhưng đến
khoản năm 1955 đã có thay đổi, cũng tuỳ thuộc địa phưong phần nào, như có thêm lớp
“tiếp liên”. Và từ năm 1956, lại thay đổi,
học sinh giỏi câp tiểu học, căn cứ vào học bạ lớp nhì và nhứt, đủ điểm sẽ đươc
cấp chứng chỉ và được lên lớp đệ thất (trung học). Tuy nhiên, chánh quyền vẫn tổ chức thi lấy văn
bằng tiểu học, để ai có nhu cầu, với bằng tiểu học có thể xin đi làm. Vào thời
nầy, trình độ của ngưòi có bằng tiểu học “cứng” lằm, không phải như nửa thế kỷ
sau nầy. Vào thơì còn đi học, là học sinh chỉ biét mang máng, sau tôi có tìm hiểu thêm, nhưng không thể dài dòng vì bài
viêt có hạn định. Đôi điều cần ghi ra đây là: thứ nhứt cơ chế giáo dục thời đó
với nội dung đầy tính sư phạm, đào tạo cho con ngưòi biết điều hay lẽ phải, sống
đạo đức, thương yêu dồng loại và nhứt là thương yêu quê hương Thứ hai, chính nền
giaó dục nầy là căn bản, nền tảng tiếp nối của giáo dục quốc gia Việt Nam Cộng
Hoà sau đó, với 3 đặc tính dân tộc, nhân
bản,khai phóng, Thứ ba, mặc dù không có qui định nào bắt buộc, nhưng phụ huynh
luôn muốn cho con mình “biết cái chữ”, đã lo cho con được đi học. Đi học có khó khăn chi, không cần phải tốn tiền học phí, cũng không có bất cứ loại “phí” nào.,
và cũng không cần phải ... có hộ khẩu. Bậc tiểu học đã không đóng tiền, cả trên
bậc trung học và đại học, đều không (ngoàị trừ trên đại học, có khi phải đóng lệ
phí ghi danh với số tiền rất nhỏ)... Được biết, lệ phí ghi danh một phần cũng để “giới
hạn”những ai đó “ghi mà không học”, vì lúc nầy ngoại trừ một số đại học như: Y, Dược,
Kỹ Thuật Phú Tho, Quốc Gia Hành Chánh và Sư Phạm... phải thi tuyển khá cam go, các
đại học khác thì... tự do ghi danh.Đây nói
về đại học công, về sau có thêm các đại học tư... phải đóng học phí. Như cá nhân
người viết, xong tiểu học, tiếp tục lên tỉnh học lớp đệ thất “tư thục”(vì bấy
giờ tỉnh S.T chưa có trường trung học công
lập). Học tư thục phải đóng tiền,và không phải tư thục là “kém” hơn công lập vì
rất nhiều tư thục qui mô, có tiếng tâm. Hơn thế nữa, thời nầy,giáo dục không phải
là “thị trưòng buôn bán chữ nghiã”, nhưng nếu trường nào “dở” sẽ khó tồn tại. Xin
không dùng chữ”cạnh tranh”, nhưng trong bất cứ “sân chơi” nào đều phải mặc nhiên
chấp nhận qui luật đào thải. Chúng ta đừng quên, tại Hoa Kỳ, đại học Harvard nổi
tiếng số một, điều kiện vào học thật khó và tiền học phí cũng khá cao. Lý do, vì
đây là một đại học tư... Xin không quá” đi xa”, trở lại chuyện học hành của tuổi
trẻ chúng tôi thời trưóc sau 1950, ở cấp tiểu học, với nội dung chương trình học
hầu như gói gọn vào “quốc văn giáo khoa thư”. Có lẽ một số quí vị dưói 65 hoặc
những bạn trẻ thế hệ hai, ba... sẽ không bao giờ cảm nhận đưọc”quôc văn giáo
khoa thư” là gì,.. Cũng như chúng tôi thời đó chỉ hiểu đại khái mơ màng, thầy cô
dạy gì thì mình cứ “cấm đầu cấm cổ” học, học và học. . . Và về sau nầy, vì nhu cầu,
tìm lại xem, thì đúng là... giáo khoa thư, dạy toàn những điều tốt đẹp, đạo đức lễ nghĩa. Điều đáng
nêu ra, khi chúng tôi ra ngoài xã hội, lối sống và cách hành xử cũng gần như y
chang những gì đã học trong “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”. Nếu hơi “thời sự” một chút, có thể xem đây như
một : “cẩm nang,bửu bối chân kinh” của môn
phái dành cho những ai muốn tu luyện thành đạo sĩ hay kiếm sĩ... Vì thời đó, ảnh
hưỏng tiếng Hán và Pháp còn nặng, phải sử dụng kiểu đặt tên như thế nầy, “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” là “sách dạy học trò
bằng chữ nưóc Việt”. Bộ sách do nhà cầm quyền Pháp, trực tiếp là Nha Học Chánh Đông
Pháp (Đông Dưong thuộc Pháp), giao cho các quí ông Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc,
Đặng Đình Phúc và Đổ Thận biên soạn. Bộ sách gồm 3 quyển :
-quyển dành
cho lớp “đồng ấu” (dạy luân lý qua các bài tập đọc, tập viết). Quyển dành cho lớp
“dự bị” và quyển dành cho lớp “sơ đẳng”
gồm các bài tập đọc với
nội dung như sau: sử ký, điạ dư, cách trí (vạn vật), toán đố, vật lý, hóa học, vệ sinh, học
thuộc lòng, chánh tả, tập làm văn... và trên hết là môn đức dục với số giờ
trung bình phải gấp đôi các môn học khác. Điều cần trang trọng ghi nhận là sách
do thực dân Pháp chủ trương, nhưng nội dung hàm chứa tính giáo dục sư phạm rất
cao, dạy làm con người tốt, hoàn toàn không đề cập về “chánh trị. hận thù” Trong
toàn bộ bài học thưòng ghi lại những câu ca dao tục ngữ, vệ sinh (lớp đồng ấu), lịch
sử, điạ dư, cảnh đất nước thanh bình, ấm no, hạnh phúc, nhứt là những bài dạy về lễ
nghiã, thờ cúng tổ tiên, bổn phận làm con, thương kính vâng lời giúp đỡ mẹ cha, thương
mến anh em đồng loại (lớp dự bị, sơ cấp), tuyệt đối không có bài nào nói về chiến
tranh, giết bao nhiêu quân địch... Trong bộ sách nầy, bàn bạc khắp các trang, là
những câu ca dao tục ngữ, được học trò “thuộc lòng” đến nhuyễn nhừ như “ăn cháo”:
-Tiên
học lễ,hậu học văn
-Cá
không ăn muối cá ưon
Con
cải cha mẹ trăm đường con hư.
-Công
cha như núi Thái Sơn
Nghiã
mẹ như nưóc trong nguồn chảy ra.
-Anh
em nhu thể tay chân.
-Bầu
ơi thưong lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
-Con
ơi muốn nên thân người
Lắng
tai nghe lấy những lời mẹ cha.
-Cờ
bạc là bác thằng bần
-Nhứt
nghệ tinh,nhứt thân vinh. .
-Một
cây làm chẳng nên non.
Ba
cây chụm lại nên hòn nuí cao. . .
Bài học nào cũng có hình ảnh minh hoạ, giúp học sinh vui thích,ham
học... Về giáo dục, tổ chức hình thức và nội dung thời Pháp thuộc, và kế tiếp thời ”Quốc
Gia Việt Nam” là tiền thân của Việt Nam Cộng Hoà (Dĩ nhiên, luôn có những sửa đổi,
bổ cứu theo tình hình, tính chất”giaó khoa thư” vẫn còn đậm nét, ít ra tới thập
niên 1960). Sách giáo khoa không đề cập “chánh trị”, nhưng về lịch sử, từng bài
ngắn gọn, thật sút tích giúp học sinh biết về: Hai Chị Em Bà Trưng, Ông Ngô Quyền,
Ông Trần Quốc Tuấn, Ông Phan Thanh Giản.
(-
bản gốc, lớp Năm-thời VNCH- www.motgoctroi.com
).
. Ngoaì ra, chúng tôi còn đưọc dạy “Tập
Vẻ” “Nhạc”
và Nữ Công,Gia Chánh”(dành
cho học trò nữ).
Trận Bach Đằng Giang
Để khái niệm
cụ thể, xin ghi ra đây, nội dung quyển “giáo khoa lớp đồng ấu”(là lớp nhỏ nhứt).
Quyển sách gồm tất cả 55 bài, gồm những bài căn bản như sau: tôi đi học, yêu mến
cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ, thân thể ngưòi ta, trường làng tôi, ăn uống có lễ phép,
đứa trẻ có lễ phép, gọi dạ bảo vâng, ngưòi học trò tốt, đi đâu phải thưa về phải
trình, thờ cúng tổ tiên, học trò đối với thầy, sớm tối thăm nom cha mẹ, anh em như
thể tay chân, chú bác cô dì, phải sạch sẽ, thờ cha kính mẹ, thưong yêu kẻ tôi tớ,
đoí cho sạch, rách cho thơm, cánh đồng quê nhà... Trong số 55 bài, đã có tất cả
14 bài về công ơn cha mẹ, tổ tiên bà con... Xem như vậy, bài học lễ nghiã luôn đuợc
đặt trọng tâm (www.ndclnh-mytho-usa.org/sach).
Về trình độ học trò, ngay từ lớp đồng ấu đã biết đọc viết trôi chảy, rồi lớp tư,
để xong “lớp ba” phải qua kỳ thi vào “lớp nhì”
Lên lớp nhì, lớp nhứt, học trò bắt đầu làm quen với khoa học
căn bản, địa lý Việt Nam, và cả một số nơi trên thế giới, biết một số căn bản
về bệnh tật... Thời đó, một học sinh xong tiểu học
(Hình
in lại trong cuốn Quốc văn Giáo Khoa Thư-1939)
thuộc nằm lòng sông Cữu Long dài bao nhiêu,bệnh đậu mùa là gì
và nhứt là biết căn bản lịch sử nưóc nhà, thuộc vanh vách tên những vị anh hùng
liệt nữ chống giặc ngoại xâm, mà đau đớn thay chúng luôn đến từ phưong bắc. những
bậc anh thư như Hai Bà Trưng, Bà Triệu trinh Nương, các anh hùng Ngô Quyền,và Đức Trần Hưng Đạo đã lần lượt đánh tan quân Tàu
tại sông Bạch Đằng. Học sinh chúng tôi đưọc dạy những bài thơ ca tụng quê hưong, những
gưong hy sinh vì đất nưóc qua bài hát “Bạch Đằng Giang”, bài “Chiến Sĩ Vô
Danh”, hay bài”Hổ Nhớ Rừng”... Học trò phải học thuộc lòng, với “chút gì đó phấn
chấn trong lòng”, thưòng khi trả bài,đa số học trò cất giọng to vang đầy hùng
khí. Học trò trả bài “nhừa nhựa’ hay nhỏ tiếng, thầy cô bắt làm lại, giọng phải
to và hùng hồn, đôi khi còn phải diển tả bằng tay như đang diển kịch... Cá nhân chúng tôi mãi đến
nay như vẫn còn nhớ,nhớ mãi. Nhớ “tình
nghiã giáo khoa thư”, lòng thương kính tổ tiên ông bà cha mẹ, cùng nghiã thầy
trò cũng là quan trọng vô cùng. Vào thời nầy, thầy cô giáo luôn đưọc xã hội kính
trọng và chánh quyền rất quan tâm đến cuộc sống. Về lương bổng cũng rất tương đối, bảo
đảm đời sống, không phải sau giờ “lên lớp” là phải” lên yên” chạy xe ôm... Thầy cô
luôn thưong yêu, tận tâm dạy dổ, xem học trò như con em. Đáp lại, học trò vừa thưong
kính và cũng vừa ... sơ nữa Tôi còn nhờ rõ như in, ở lớp năm ,tư (lớp một, hai
sau nầy), học sinh còn nhỏ, hầu như thây cô chỉ khuyên răn nhắc nhở, không dùng
hình thức phạt hay đánh. Nhưng lên lớp Ba, học sinh đã bắt đầu biết”nếm mùi đời”, không
thuộc bài, lầm lỗi như chơi xấu, chửi lộn
hay đánh bạn, hay không giữ vệ sinh. thưòng bị khẻ tay bằng thuớc hay bị kéo lổ tai đau điếng. Thường
một hai ngày, học sinh xếp hàng,đi ngang thầy hay cô, xoè hai bàn tay, nếu bị dơ
hay móng tay dài sẽ bị “ăn” một khẻ nên thân... Trả bài không thuộc, học sinh sẽ phải chép lại
bài vài chục hay cả trăm lần ,nếu là câu ngắn. Chép ở nhà,hay ngày chúa nhựt phải
vào lờp ngồi chép bài,dưói sự giám sat của thầy cô (thời Tây gọi là”cồng xin”)... Thời
nầy, hầu như bất cứ môn nào cũng phải học thuộc lòng. Mỗi đâu giờ, thây cô lật
sổ kêu tên, cả lớp im lặng như tờ, trò nào đưọc kêu tên, thưòng đứng lên bảng, khoanh
tay trả bài... Nhờ vậy mà nội dung bài học như in sâu vào ... đầu, thuộc nằm lòng,
khó quên đưọc. Cũng có những học trò nghịch ngợm, khó dạy
hay không chịu học bài, khuyên răn mà không nghe lời, không ít trưòng hợp thầy
cô áp dụng “biện pháp mạnh”, từ dùng thưóc kẻ khẻ vào bàn tay, hoặc dùng roi mây (bằng
ngón tay nhỏ khoản như cây viết chì và dài khoản một thước) đét vô ... mông đít
đến nổi dấu đỏ chót... Là một học sinh, không thông minh nhưng siêng học, hầu
như suốt cả hai năm cuối bậc tiểu học, tôi không bị “ăn” roi mây lần nào. Xin đừng
tưỏng là thầy cô quá nhẫn tâm, mà cũng vì muốn học sinh nên ngưòi... Hình thức
dùng roi mây thật không nên, nhưng hầu như thời đó không một ai phản đối, vì
tinh thần nể trọng thầy cô, Thật vậy, thời đó vị trí xã hội thầy cô rất cao, đi đâu
cũng đưọc cha mẹ học trò trọng vọng, chào kính.Bậc cha mẹ học sinh là vậy, học
trò càng kính trọng thầy cô, khi tiếp xúc luôn khoanh tay cuối đầu... Hồi xưa đó, thời
chúng tôi giềng mối”tam cương, ngũ thường” chỉ còn... hai cưong,tức “sư ,phụ”,
vua Bảo Đại không còn là ... vua, chỉ là Quốc Trưỏng, nhưng nghiã thấy trò còn
“nặng” lắm. Câu ca dao”công cha,nghiã mẹ, ơn thầy” luôn đưọc truyền tụng ... Trong
dịp Lễ Tết, học trò phải nhớ” mồng một nhà cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy”.
Ngày mồng ba, học trò luôn nhớ ơn, dù đã thành ngưòi lớn, có gia đình rồi cũng
nhớ thầy ngày xưa, mang quà đến mùng tuổi. Quà không cần phải giá trị quí giá
chi, thưòng là gói trà, bánh mứt cùng đôi đòn bánh tét... Hầu như đâu đâu cũng
vậy, và chưa bao giờ xảy ra những chuyện học trò hổn hào, đừng nói chuyện học
trò đánh thầy. Trong tình thầy trò, hầu như không bao giờ bị chi phối vì vật chất
bạc tiền, hoàn tòan không có chuyện “gian tiêp hay trực tiếp’ bắt học trò mình
phải “học thêm” lớp ngoài giớ do chính mình mở ra. Còn nhớ, năm 1955, học trò lớp
nhứt chúng tôi lên tỉnh thi tiểu học, quả là một biến cố quan trọng, cả làng cả xóm
đều biết. Năm lớp nhứt, học sinh phải thật chăm chỉ, học hành đến nơi đến chốn và thầy chỉ dạy chi li từng chút, nhứt
là cách giải những bài toán đố mà tôi còn nhớ mãi” hai vòi lớn nhỏ mở ra trưóc sau “... Vậy mà chưa
yên tâm, để giúp học trò, thầy tôi đã mở lớp học thêm vào buổi tối hoàn toàn không
‘ăn tiền”... Trong dịp nầy, nhiều học trò chúng tôi đưọc cha mẹ mua cho cái đèn
pin để soi đưòng. Thiệt là mừng hết biết,và cũng lạ nữa. Tôi mân mê cây đèn, thử
rọi lên ngọn dừa thấy sáng trưng, rồi lại rọi lên trời thầm nghĩ ‘sáng tới trời,chắc
vì xa quá không thấy... “ nay ngồi nhớ lại thì thiệt là... khù khờ ngu ngô... Học
trò chúng tôi thời đó, bạn bè thưòng chung lớp khoản năm năm, mỗi dịp hè xa nhau, làm sao quên đưọc, học
trò lớp nhì, nhứt chuẩn bị quyển lưu bút
ngày xanh thật đẹp, tô màu, vẽ hình bông hoa, chim cò, dường như có hình trái tim
nhưng không có mủi tên rỉ máu xuyên ngang... Một năm học kết thúc, đáng nhớ làm
sao buổi lễ phát thưởng. Trong năm học, mỗi tuần đều có cộng điểm và mỗi tháng tổng
kết, danh sách học sinh với thứ hạng đưọc ghi trên bảng treo lên tưòng. Thưòng học
sinh hạng nhứt nhì ba đưọc xưóng tên lên nhận bằng danh dự, thật danh dự vô cùng. Càng
“ngon lành” hơn, mỗi sáng chào cờ đầu tháng, học sinh hạng danh dự đưọc xướng
danh, lên đứng xếp hàng, đưọc thầy cô và các bạn vổ tay... Cá nhân chúng tôi khá
siêng học, luôn đứng nhứt nhì, vui mừng lắm và còn được thầy tin tưỏng giao cho
ôm sổ cộng điểm về nhà ... Trên tưòng, trưóc 1954, cao nhứt là hình”Đức Quốc Trưỏng
Bảo Đại (và sau đó là hình Thủ Tưóng Ngô
Đình Diệm), các bảng khẩu hiệu”Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn,”Uống Nước Nhớ Nguồn”... Như đã nói mỗi muà bãi trưòng,lễ phát thưỏng luôn đưọc tổ chức thật qui mô,
luôn có sân khấu, học trò và thầy cô chuẩn bị cả tháng, còn phải tập các vở kịch
nữa. Buổi lễ phát thưởng trưòng Quận tôi lúc đó, thưòng luôn đưọc ngài Quận Trưỏng
chủ tọa, cùng sự tham dự các viên chức, các vi bô lão và phụ huynh học sinh. Ngày
phát thưỏng thật không khác gì ngày lễ hội, học trò được lảnh thưỏng là những gói
thật to, gồm cặp da, tư điển, sách vở. . . giữa những tràng pháo tay to vang. Chính
hình thức long trọng nầy, đã khuyến khích
học trò cố gắng. Tôi nhờ siêng học,
năm nào cũng đưọc những phần thưỏng, ông bà ba má vui mừng. Tôi cũng còn nhớ các
bạn bè, có đứa đã quá buồn, khóc rấm rứt... Nhưng rồi cũng qua đi, xong lễ chúng
tôi lại cùng nhau tay trong tay, líu lo trò truyện. Và rồi những cuốn lưu bút được
trao nhau. Đời học sinh nhiều kỹ niệm nhứt phải là thời tiểu học, mà ông nhạc sĩ Thanh Sơn của quê tôi Sóc Trăng đã khiến hàng triệu học trò bùi nguì “nhớ muà
hoa phượng”, nhớ quyển “lưu bút ngày xanh”.
Thật đáng buồn,
đất nưóc tôi,quê hưong tôi từ sau 1960, đã không còn bình yên một thuở... Ôi, những
quyển lưu bút ngày xanh của chúng tôi, tuổi xuân xanh của chúng tôi, của hàng
triệu ngưòi đã bị ngọn lửa chiến tranh hận thù thiêu rụi mấy mươi năm. Riêng tôi, những bằng danh dự, những quyển lưu bút, những cuốn tập học trò cùng bài vở mực
tím... mà tôi giữ gìn trân quí như báu vật trong 20 năm, đã bị ngọn lửa 1975 đốt
cháy không tiếc thương. Ngọn lửa 1975 đồng thời đã tạo cơn lốc xoáy điên cuồng thổi
tôi và hàng triệu đồng đội, đồng bào tung bay
vào những khu rừng trại cải tạo, khu kinh tế mới, đại dương đầy sóng dữ,
hải tặc... Cuối năm 1955, tạm rời quê,lên tỉnh học trung học, rồi lên chốn “đô
thành”, đôi lần về thăm, cũng chưa thấy đổi thay nhiều... Sau ngày “tháng tư năm
ấy”, Lấy xong”bằng tiến sĩ cải tạo “, vất
vưỏng tìm hột cơm... khoảng mưòi năm sau, tính ra đã tròn 30 năm, tôi về tìm lại mái trưòng xưa,mà giờ đây đã thay đổi
hầu như hoàn toàn. Nghe nói, ngày nay câu ca dao”Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn” đã
không còn treo trên tường nữa ... Đúng thật rồi, và còn biết bao nhiêu
“điều nghe nói”, đã là sự thật, sự thật mà bình thưòng không dám tin. Sau gần
ba chục năm, về lại quê xưa, thăm cái quận nho nhỏ ngày nào, cũng con đường cũng
xóm làng, nhưng sao tìm lại ngôi trường quá khó khăn. Nhưng cuối cùng đây rồi,
ba mưoi năm, là nửa đời ngưòi, trưòng tôi ngày xưa với mái ngói đỏ như son môi cô thiếu nữ,nay đã
xám xịt, đầy những rêu phong. Ngày xưa ấy, trưóc trưòng là khoảng sân rộng, nhiều
cây còng khá to, nay đã không còn nữa. Ngưòi
ta đã đốn, lấy mặt bằng là mặt tiền. Trước sân đã là những căn nhà ngói của ai
đó, chỉ còn con đưòng như hẻm nhỏ, vào sâu hon 20 met. .. Về “Thăm Lại Trưòng Xưa”,
tôi đã thấy:
Nằm
khuất sau nhà ai
Trưòng
tôi vẫn còn đây
Bấy
nhiêu năm xa cách
Ôi,
quá nhiều đổi thay
Tôi
nhớ lại ngày xưa
Mái
trường ngói màu đỏ
Trê
đường đi đến lớp
Nhìn
thấy rõ từ xa
Nhớ
hàng còng xanh tươi
Che
sân trường mát rưọi
Cho
chúng tôi thỏa thích
Nô
đùa giờ ra chơi
Nay
hết rồi còn đâu
Mái
trường phủ màu rêu
Và
cong hoằng hẳn xuống
Vì
chịu đựng quá lâu
Vách
tường màu nhợt nhạt
Chấp
vá bao lổ hang
Từng
mảng vôi vụn vở
Cào
xé bởi thời gian
Tôi
bàng hoàng nhìn lên
Côt
cờ như ngã nghiêng
Màu
cờ vàng đã mất
Theo
vận nưóc truân chuyên
Lòng
miên man hồi tưởng
Bè
bạn học chung trường
Nay,
ai còn ai mất
Ai lưu lạc tha phương
Ông
hiệu trưởng, cô thầy
Như
ẩn hiện đâu đây
Ôi,
thời gian tàn nhẫn
Đôi
mắt buồn, ai hay...
Ôi, trường làng
tôi, đã đổi thay nhưng vẫn còn đây. Tôi chỉ sợ một ngày nào đó, những con em, ở
đâu đó... sẽ không còn biết và sẽ hỏi”Việt Nam Tôi Đâu”. Xin thưa, đó là dảy đất
hình cong chữ “Ếch”(S), luôn mỉm cười rạng rỡ “Minh Châu Trời Đông”./.