TRÍCH CÁC ĐỊA DANH MIỀN NAM -PHẦN 5




- CÙ LAO:
Là khoảnh đất rộng, ít ra cũng rộng hơn cồn, nhô lên giữa sông Cái hoặc ngoài khơi  giữa biển mênh mông, như:
-Cù lao Dung, Cù lao Nai, nay là huyện An Thạnh Nhứt (Sóc Trăng), là nơi  chỉ riêng xã An Thanh Nhứt có tỉ lệ 90 % ( 200) cô gái lấy chồng Đài Loan. Sự kiện đau lòng nầy đã gây hậu quả tác hại mất cân bằng nhân số, khiến chúng ta nên dành một phút giây chia xẻ lời than thở đến não nuột của các chàng trai lâm vào cảnh:’
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển bắc, anh tìm biển đông
Tìm chi cho phải mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi...
- Cù lao Phố (miệt Biên Hòa, Gia Định xưa)
- Cù lao Giêng ( Long Xuyên), nơi từ lâu có ngôi nhà thờ, tu viện và nhứt là trại hủi rất    qui mô.
- một số các cù lao  thuộc tình Mỹ Tho như: cù laoThới Sơn, Năm Thôn.
-các cù lao đã căn bản hình thành là đất tỉnh Bến Tre: Bảo, Minh. . .
- VŨNG :
(là nơi, thường là bờ biển lỏm vào bên trong, là nơi tàu bè vào đậu. Vũng thường nhỏ  hơn vịnh), thí dụ:
- Vũng Tàu ( nằm cách Sài gòn khoản 120 km), là nơi tàu thuyền neo đậu, chờ vào thương
cảng Sài gòn. Vũng Tàu cũng là thành phố du lịch nổi tiếng của  miền Nam.
- Vũng Liêm ( một huyện của Vĩnh Long)
- Vũng Mủi  Cà Mau
Miền Nam cũng có bờ biển bao quanh về phía nam, tuy nhiên vì không có đồi núi gồ ghề nên không có nhiều vũng như miền Trung (sẽ được trình bày trong bài sau nầy)… Nhưng  tác giả còn nhớ, thời xa xưa, khi còn “mài đủn quần trên ghế nhà trường’, ông thầy có cho biết  nơi quê cụ đồ Tam Nguyên Yên Đổ (Nguyễn Khuyến) ở làng Ngang có một cái vũng Lội. Vũng nầy nước không sâu lắm, các cô muốn... lội qua phải vén... quần, để lộ cái gì trăng trắng như “con cuối.” Hú hồn, tưởng thấy  “cái”  kia mới   hồi hộp
Thôi, giờ xin tạm quên con hay cái, giờ thì xin đề cập đến ...
- HÒN:  ( là cụm đất  nổi lên ngoài khơi, nhưng nhỏ hơn đảo. Đa số các hòn thường nằm  gần bờ biển như:
-Hòn Đất, Hòn Chồng, Hòn Tre,  Hòn Rái... ( thuộc Rạch Giá). Gọi Hòn Rái, vì nơi hòn nầy có nhiều con rái cá, là loại  gần giống con chồn, nhưng to và lông mịn, sống dưới nước, đuôi thật dài Chúng  săn cá rất tài tình. Riêng Hòn Đất, nay là một huyện của tỉnh Kiên Giang, khá lớn với dân số vài chục ngàn người… thuộc tỉnh nầy còn có “Hòn Nhạn”, thuộc đảo Thổ Chu, Phú Quốc..., vì nơi nầy có nhiều chim nhạn sinh sống. Giữa thiên nhiên, chúng mặc tình săn bắt cá, rồi  tìm bạn tình và mặc tình đẻ trứng, bởi thế  mới... đẻ ra...
- Hòn Trứng Lớn, Hòn Trứng Nhỏ:
(cách Vũng Tàu khoản 50 km.). Xã hội loài chim cũng như bao nhiêu con sinh vật khác, kể cả con người, đầu quần tụ theo đàn, nhóm, giống.Nơi hòn có giống chim lớn thì đẻ trứng lớn, nên gọi là ... Hòn Trứng Lớn, và ngược lại.
-Hòn Khoai, Hòn Tre ( thuộc tỉnh Cà Mau), chỉ cách đất liền khoản 15 km.
Đặc biệt, nơi Hòn Khoai có rất nhiều loại khoai củ to, dài cả thước, và phong cảnh cũng khá hữu tình. Ngày nay, nơi nầy cũng là điểm du lịch sinh thái rất được ưa chuộng vì đi lại dễ dàng.
-ĐẢO,
QUẦN ĐẢO: (Đảo là cụm đất cũng nổi lên, nhưng to hơn hòn. Quần đảo là một tập hợp nhiều đảo, thí dụ:
- Đảo Phú Quốc (thuộc Rạch Giá), đảo Côn Sơn ( hay Côn Đảo) tùy thời kỳ thuộc Bà Rịa hay Cà Mau
- Quần đảo Trường Sa (tỉnh Phước Tuy), miền Nam Việt Nam. Cũng như Hoàng Sa, là hai quần đảo nằm ngoài khơi bờ biển Việt Nam vài trăm hải lý, từ năm bảy trăm năm trước Việt Nam đã thực tế chiếm hữu bằng sự hiện diện của quân lính, đài thiên văn, hải đăng. Trong khi bọn Trung Quốc xâm lược cách xa, hoàn toàn không đủ chứng lý và thực tế, đã dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974, nay đã ngang ngược vẽ cái “lưỡi bò” tham lam liếm tới kề bên Mã Lai. Trung Quốc thừa biết sự phi lý của họ, nhưng cố tình làm bừa, áp dụng kế sách: ’nói dóc hoài sẽ thành thật,” và “ biến không thành có”...
Tiếp theo, xin đề cập đến các địa danh, bắt nguồn từ tiếng Khmer. Về nguyên tắc đặt tên, gồm:
 -Phiên âm từ địa danh tiếng Miên đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt.
-Định nghĩa một đia danh Khmer đã có sẵn, dịch sang tiếng Việt, thí dụ: Bến Nghé là từ tiếng Kompong Krabei (Vũng trâu)
Đây là nhóm khá nhiều tại các tỉnh như: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, Châu Đốc... , chỉ xin ghi ra một ít tiêu biểu, thí dụ:
-Bến Tre: do tiếng “Srok Trey”(xóm cá), vì nơi nầy xưa có nhiều cá tôm, ghe xuồng đánh bắt thường tụ tập thành bến. Tỉnh B.T cũng có các tên như xã Mỹ Lồng ( do tiếng ”Srok milom”, xóm có “nàng tên lom”). Bến Tre là xứ dừa, vời đặc sản kẹo dừa, bánh tráng nước cốt dừa, nơi mà:
Ai người khăn gói gió đưa
Về đây quên hết nắng mưa bụi đời
Khi yêu yêu lắm người ơi
Cả trời, cả đất cả người Bến Tre (thơ Kiên Giang).
    Nhân đây cũng nên ghi nhận, Bến Tre không phải có nhiều tre, vì tên  là do từ tiếng Khmer.
-Cà Mau    : do tiếng “Tuk-Khmau”( nước đen) mà ra.
-Châu Đốc: từ tiêng”Mắt Crut” (mỏm heo) của Khmer.
-Ba Thê:    : (tên huyện  của An Giang) là từ “Tà Thner” ( Ông Thê)
-Xà Tón    :  (tên một nơi ở thị trấn Tri Tôn, Châu Đốc), do tiếng”Vat Svay Ton”(khỉ lôi kéo). Nghe đâu khi xưa vùng nầy khỉ nhiều lắn, người đi đường bị khỉ ra quấy phá...)
-Cần Thơ  do tiếng ”Kintho” ( Cá sặc rằn). Về tên Cần Thơ, trong quyển “Cần Thơ, Xưa và Nay” của  ô.Huỳnh Minh, nêu lên thuyết “ do tiếng “Cầm Thi Giang”, con sông đẹp  Thuyết nầy không  vững lắm…
-Thốt Nốt    : (tên một huyện, trước thuộc tỉnh Phong Dinh-Cần Thơ, nay thuộc An Giang). Tên nầy do tiếng “Thnôt’, tên gọi một loại cây đặc trưng của người Miên, thuộc họ và tương tợ như cât dừa. Trái uống rất ngọt, và cô đặc thành đường rất thơm..
-Cần Đước: từ tiếng ”Prek Andok”, Cần Giuộc (Srok Kantuot). Hai huyện nầy thuộc Gò Công cũ (nay là Tiền Giang)
-Mỹ Tho    : từ tiếng Mê Sô
-Sa Đéc     :  do tiếng “Phsar Dek (chợ sắt) vì nơi ầy xưa kia chuyên bán sắt.
Thuộc Sa Đéc cũ, nay là Đống Tháp có huyện Lấp Vò
-Lấp Vò    : do tiếng ”Srok Takpor”, xóm  nước nóng
   (Cũng có truyền thuyết, thời nội chiến Tây Sơn, Nguyễn Ánh, chúa Nguyễn Ánh   lập căn cứ ở Hồi Oa (Long Hưng, Nước Xoáy, vùng giữa Sa Đéc và Cần Thơ cũ), rạch Lấp Vò vô cùng quan trọng, con sâu nước chảy, hai bên bờ sông nhiều trại đóng ghe xuồng, bán dầu chai trét ghe và “lấp vò”… Lấp vò là dùng dầu chai, trộn cùng bố tời xảm vô các khe, lấy dầu trong phết lên cho cây “uống” dầu... 
-Nha Mân (do tiếng “Srok Okha Mân). (sóc của nàng Mân). Chẳng biết nàng Mân có đẹp không, nhưng theo dân gian từ lâu đều cho rằng gái Nha Mân đẹp có tiếng, qua câu vè” Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân”.
-Lai Vung Cũng là một địa danh, thuộc Sa Đéc cũ, nằm trên đường từ Sa Đéc đi về bắc Vàm Cống. Đây là một địa phương nay thuộc xã Tân Lộc, huyện  Lấp Vò, rất nổi tiếng với món nem chua... Có một vài thuyết giải thích địa danh nầy, nhưng có lẽ thuyết sau đây nghe ra hợp lý hơn. Nơi vùng nầy có đến trên 700 mẫu trồng trọt, trong đó đa phần trồng cau (ăn trầu). Trái cau có 7 loại, khi để khô mới hái xuống, gọi là cau tầm vun, người Miên gọi là “sla tamvun”. Xứ nầy được gọi là ”Phsar Cla tamvun”, người mình đọc trại ra là “Lai Vung”
-Sóc Trăng: do tiếng ”Srok Khleng “ (xóm kho bạc), thuộc tỉnh Sóc Trăng co khá nhiều đia danh  từ tiếng Miên  như;”Bải Xàu”  là ”bai xao” (cơm sống), hoặc “Trà Quít, Trà Canh, Trà Men, Trà Cuôn... Có giải thích khác,  Sóc Trăng   là “sóc to” không đúng…
- Kế  Sách : (một Quận của tỉnh Ba Xuyên-Sóc Trăng ) là “K’sach”( xứ cát) vì nơi đây có con  sông cái, cồn... có nhiều cát dùng xây cất được.
- Vàm Tấn  : tên một cái vàm nổi tiếng của quận Long Phú, Sóc Trăng, do tiếng “Peam Senn” (theo ô. V.H.Sển)
 -Trà Vinh : do tiếng “Preas Trapeang” ( đảo của Phật). Tỉnh nầy đặc biệt có khoản 300 ngôi chùa Miên xây từ nhiều thế kỷ trước. Tỉnh có nhiều địa danh như ”Láng Thé” ( Tonlé Kanlen Sè).
   Như ta thấy, Trà là từ tiếng Miên, một số địa  danh  nơi có người gốc Miên có những tên như: Trà Cú ( Trà Vinh), Trà Men, Trà Canh, Trà Quít ( Sóc Trăng), Trà Ôn (Vỉnh Long) là quê hương của Cậu Mười Út, tức danh ca Út Trà Ôn.
-Vĩnh Long: do tiếng “Kompong Luông” (vũng Luông), là vùng đất trải dài từ Vĩnh Long đến Sa  Đéc, đến tận Long Xuyên Châu Đốc.
  Nhân đề cập đến chữ “long”, xin lạm bàn thêm. Long theo nghĩa chữ Hán Việt, là “rồng”, dành cho vua. Nhớ thời  Nguyễn Ánh trên đường bôn ba, đã đến nhiều nơi. Và nơi đó được vinh hạnh mang địa danh có chữ Long, thí dụ: Càng Long, Long Mỹ.
-Mang Thít: do tiếng ”Băng Brit” (cái lung mọc đầy bông súng), đây cũng là tên con sông về phía đông nam tỉnh Vĩnh Long, nối liền sông Tiền và Hậu…
-Trà Ôn  :  (một huyện của Vĩnh Long) do tiếng “Tà Ôn” (ông tên Ôn), “tà” tiếng Miên nghĩa là ông..
-Long Hồ  (thuộc Vĩnh Long), do tiếng Longhor. (chim bói cá)
-Sài gòn  : Địa danh thân thương, một thời là thủ đô quốc gia tự do của Việt Nam. Tên Sài gòn, củng do nhiều nguồn, giải thích khác nhau, nhưng chỉ có 2 thuyết là khả tín. Thứ nhứt, do phiên âm từ tiếng ”Preiko” (rừng cây bông gòn) hoặc ”Prei Nokr” ( đô lâm hay hoàng lâm) vì nơi đây có tư dinh của phó vương Cao Miên. Thứ hai, từ sự kiện nhóm người Minh Hương theo phe Nguyễn Ánh, bị quân Tây Sơn tàn sát, họ phải rút về vùng Sài gòn, xây bờ gạch cao, dọc theo Kinh Tàu Hủ, gọi là “Thầy Ngòn” ( đê ngạn), người Pháp phiên âm là  Sai gon. Cũng có thuyết là do phiên âm từ tiếng “Tây Cống”, là nơi vua Cao Miên cống nạp cho vua VN...
    Nhân đây, cũng nói thêm một chút về “Minh Hương”. Người Minh Hương, được hiểu là người Trung Hoa, một cộng đồng cư dân gắn liền với sự hình thành ”đất phương Nam”. Họ sống rải rác từ cù lao Phố (Biên Hòa), đến các tỉnh Tiền và Hậu Giang, và tập trung đông nhứt vùng Chợ Lớn. Gọi như vậy, vì họ nghĩ đến”quê hương nhà Minh” (đã bị nhà Thanh xâm chiếm, cai tri.). Họ chia ra 5 bang chánh là: Quảng Đông, Triều Châu (Tiều), Phước Kiến, Hẹ và Hải Nàm. Người Quảng thường co cụm nơi thành phố, kinh doanh buôn bán, người Tiều sống xen lẩn cùng người Miên, Việt, chuyên làm rẩy, (thường gọi là”chệt rẩy), người Hải Nam chuyên về ngư nghiệp. Các nơi nhu Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, người Tiều lập gia đình cùng Miên hay Việt, cho ra đời những cô gái “đầu gà đít vịt” khá xinh.
- Thủ Dầu Một : Có giả thuyết cho rằng từ tiếng Miên (Việt nam Tự điển của Lê văn Đức và lê Ngọc Trụ), đó là tiếng” thun doán bôth”- gò có đỉnh cao nhứt… Trong tự điển “Tiếng Việt miền Nam” của ông Vương Hồng Sển (in năm 1997), do tiếng ”Choeutal Muey Doem” ( Nghĩa là cây dầu một). Ngoài ra, trong dân gian, có lối giải thích ngắn gọn hơn, Gọi như vậy vì “trên đầu đường vô tỉnh có cây dầu to”. Riêng tên “Bình Dương  có từ năm 1698. Bình Dương nổi tiếng với vườn trái cây Lái Thiêu, đồ gốm, về con người cũng khá nhiều, nhưng hầu hết người Việt miền Nam trước năm 1975 đều biết “người đẹp Bình Dương” là cô đào Thẫm Thúy Hằng, một thời sắc nước hương trời, nhưng nay đã” theo dòng thời gian, tàn phai nhan sắc”. Ôi, cũng là lẽ thường ...
- Gò Vấp: ( một quận của  Sài gòn, nay là TP/HCM) là từ ”Kompap”( gỗ rất quí). Gò Vấp là gò có nhiều gỗ quí.
-Bà Rịa :  theo một nhà khảo cổ người Pháp, do tiếng “Phrey” đọc trại ra, là tên một cái bàu lớn ở xã Long Điền. Cũng có lối giải thích khác ( theo Địa Phương Chí 1902 do H.H N.C Đông Dương), do lấy tên của bà Nguyễn thị Rịa, người gốc Phú Yên. Bà nầy vào lập nghiệp, có công giúp cho địa phương nên tên được chọn.
   Sau đây, xin dài dòng thêm về địa danh từ tiếng Miên (Theo ĐNCL số 2, phát hành tại Nam cali). Như trên ta thấy chỉ  riêng địa danh cấp tỉnh, đã có trên dưới 10 tỉnh miền Tây phát xuất từ tiếng Miên. Riêng trường hợp liên quan đến tiếng Trà. (trong Trà Vinh), họ gọi là Tra-păng, càng nên tìm hiểu thêm. Từ nầy có khoản 6 thế kỷ trước, khi người mình vào cư ngụ, đọc trại ra là Trà Vang. Người Pháp phiên âm là Tra Vinh, mình đọc thêm dấu huyền thành Trà Vinh. Riêng từ nầy không có nghĩa gì cả mà chỉ là phiên âm. Tương tự như “Trà”, dùng gọi các địa danh  xứ Quảng, miền Trung như: Trà Mi, Trà Bồng, Trà Khúc... Vô trong Nam, từ nầy ghép chung với chữ khác mà thành (trang, quyển 2. Đất Phương Nam). Cũng có thuyết cho rằng Trà từ tiếng “Tà” đọc trại ra, theo tiếng Miên nghĩa là “ông”. Thường trong các sóc Miên, có một cái cốc nhỏ dưới góc cây, đặt mấy viên đá, thờ ”Ông Tà”... Lại xin lan can đến chữ “tà”, bên Cam Bốt có nhiều địa danh mang tên nầy, cụ thể như tỉnh Tà Keo. Và đặc biệt liên quan đến một “vết nhơ của nhân loại “ xảy ra tại xứ Cam Bốt. Trong thập nên 1970, có tên sát nhân diệt chủng tên Ta Mok. Chuyện xứ người, nhưng đây là một sự kiện mà cả thế giới đều đề cập như một hình ảnh gớm ghê, kinh tởm, cũng đáng để chúng ta nêu lên. Vào tháng 4/1975 cùng thời với Việt Nam, Cam Bốt cũng được “giải phóng” do nhóm Khơ Me Đỏ từ rừng rú tràn vô. Nhóm nầy do Pon Pôt cầm đầu cùng với một “băng đảng” có học thức, trong đó có Ta Mok là chúa ngục, chuyên giam giữ và tàn sát dã man như thời trung cổ những “kẻ thù “của họ là nhân dân thuộc giới trí thức. Theo tài liệu phổ biến rộng rãi, trong thời gian cầm quyền từ 1975 đến 1979, Khơ Me Đỏ đã cai trị dân Cam Bốt. Chuyện thật thê thảm và khá dài, chỉ xin tóm gọn và đặc biệt về vai trò của Ta Mok.  Trong sự kiện nầy, ta thấy có 2 vấn nạn đáng nói là:
   -Khơ me Đỏ thực hiện chủ thuyết “nguyên thủy” cho dân Cam Bốt, nhưng họ thì vẫn là vua chúa với ngựa xe võng lọng sơn hào hải vi. Các tay đầu xỏ từ Pon Pốt, Iêng Sary... và những cán bộ đều có vợ đẹp con khôn riêng, nhưng lại bắt dân sống tập thể, vô gia đình..., người dân sống trong công xã, trai gái lao động tốt được khen thưởng cho ”ngủ chung”, không cần biết ai là ai...
   -Họ là trí thức, du học bên Pháp, nhưng dân chúng  không có quyền là “trí thức” và bị tiêu diệt, không nương tay; mà trí thức là những ai mang kiếng trắng hay cận thị, tay trắng không sần sùi. Xã hội theo xã hội nầy không cho phép “văn minh theo tụi tư bản”, nên họ cấm xài tiền, không được xử dụng khoa học kỹ thuật mà chỉ dung cuốc xẻng... Để thi hành chế độ diệt chủng (chính chủng tộc của họ), nhiều nhà tù lập ra, mà Ta Mok là xếp xòng… Khi vào nhà tù là coi như tiêu đời, bị giết bằng nhiều cách dã man, như đập đầu bằng búa... Sau 1979, Khơ Me Đỏ bị đánh dẹp, một chánh phủ khác lên thay mà cuối cùng nắm ngội bá chủ là tay Thủ Tướng Hun Sen, vốn là trung đoàn trưởng Khơ Me Đỏ... Nay tay nầy chiếm kỷ lục là Thủ Tướng trẻ và cầm quyền lâu nhứt thế giới Dù nay mang danh là gì, cốt lõi vẫn là “ độc tài đảng trị”. Đáng lẽ không phải tốn giấy mực đề cập chuyện bá vơ nầy, vả chăng cũng không phải là điều quan yếu trong nội dung thiên tài liệu, nhưng vì liên quan đến chữ “Ta” Mok (mà ta đọc là “Tà’). Trong vài năm vào khoản thập niên 2000 đến 2010, quốc tế lập tòa án xét xử bọn diệt chủng, trong đó có tên Ta Mok. Tòa án mà quốc tế phải tốn nhiều triệu đô la, cứ nhì nhằng chẳng xử được gì, và tên Ta Mok nầy được chăm sóc từng ly từng  tí kèo bị... ngủm thì còn lấy đâu mà xử. Thật trên quốc tế, nhiều chuyện “tào lao”, không hiểu nổi.
    Xin trở lại nội dung chánh, về địa danh, ngoài những tiếng gốc từ tiếng Cam Bốt, con từ vài ngôn ngữ các sắc dân khác, cụ thể từ tiếng Trung Hoa :
    - như trường hợp  vừa nêu trên (Thầy Ngòn, Xấy Cung-Tây Cống... )
     Lại phải nhắc đến tên một vài từ có liên quan đến các “chú” người Tàu như: Chú Hỏa, Chú Ía...
    - Bạc Liêu ( tên một tỉnh miền Tây, nằm trên quốc lộ Bốn cũ), bên dưới sát tỉnh Sóc Trăng.
    Bạc Liêu do tiếng Pô Léo mà ra (cũng có thuyết khác nhưng không vững).
    Và nhân đề cập đến vùng Bạc Liêu, Cà Mau, xin nhắc đến vài địa danh  như:
-Vĩnh Châu, một huyện của Bạc Liêu, có nghĩa là hạt ngọc đep muôn đời.
    Đây là một nơi nổi tiếng về củ hành nhỏ, đỏ, rất thơm, thường gọi là hành tiều, vì đa phần do người Tiều trồng. Tiếp là vườn nhãn rộng khoản 200 mẫu. Giống nhãn rất thơm ngon, hột nhỏ, thường gọi là nhãn hột tiêu.
- Giá Rai, cũng thuộc Bạc Liêu. Địa danh nầy, theo lời giải thích, là vì lúc còn sơ khai, dân cư thưa thớt, dọc theo sông rạch nhiều loại thảo mộc như cây tràm, cây giá, cây chiết, vừng... mọc. Dân chèo xuống ngang qua vùng nầy thấy nhiều  giống cây khác, mà chỉ có “Lai Rai Vài Cây Giá”,  thế là cái tên Giá Rai có từ đó. Về chuyện nầy thì xin. . . ”tùy ý mỗi người”.
- ”Năm Căn”. ( Cà Mau), là cũng vì... hồi xửa hồi xưa, vùng đất hoang vu “muổi như sáo thổi, đĩa lội tợ bánh canh’, cũng là đất “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”, dân tứ xứ về đây lập nghiệp. Lúc nầy, cách đây khoản tám chin chục năm, làm gì có bản đồ hay bảng chỉ đường cho dân chúng... Người dân, để chống lại thú dữ và cả nổi cô đơn, nên thường cất nhà liền kề bên nhau hầu sớm hôm nương tựa... Lúc đó, người mới tới hỏi người địa phương, đây là vùng nào... Thì chàng thanh niên đại khái tên như Út Lượm bèn gải đấu trả lời” Nghe tía con nói đây là Năm Căn, vì có năm căn nhà  cất kề nhau”.
- Sông ông Đốc, cũng là tên của một  thị trấn ở Cà Mau, vì nơi nầy khi Nguyễn Ánh “bôn ba khắp nẻo” đến đia phương nầy có ông đốc binh họ Huỳnh tận tình phò giá, nên được chọn làm tên...
- Và còn nữa ”Đầm Dơi” (Cà Mau) vì nơi nầy khi xưa có vùng nước lưu niên, gọi là ”đầm”cây cối um tùm, dơi hàng nhiều ngàn con tụ tập về sinh sống.
Nhân đề cập danh xưng gốc Miên, cũng xin ghi ra một số từ, trong dân gian miền Tây, có sự pha trộn hoặc ”cầm nhầm” của nhau, mà xử dụng lâu ngày không để ý, thí dụ như:
-“cà ròn” (karong) cái xách tay có quay, đan bằng lá cây bàng (loại cây lát nhỏ, không phải cây bàng lá to bằng cây quạt). Đồ vật nầy rất phổ thông, dùng đựng đồ đạc, trái cây, nó dần bị thay thế bởi các túi xách bằng nylon sau nầy.
- xà ngom (chà ngom), dụng cụ bắt cá.
- xà neng  (xneng), cũng là một dụng cụ bắt cá.
- cái lộp     : một dụng cụ dung đặt ngầm dưới nước cho cá theo nước  lọt vô.
- cái nóp    : đây là một loại túi ngủ (sleeping bag), thật đơn giản, chỉ là một chiếc đệm hình vuông bằng lá bàng, xếp đôi, may lại 2 cạnh. Khi ngủ nằm vào trong, chỉnh cho hai mép nằm dấu dưới lưng... Dụng cụ nầy khá kín, muổi khó đột nhập, nhưng không quên dễ bị ngộp hơi. Đối với hiện nay, ít ai biết cái nóp là gì, nhưng khi xưa vùng quê rất thịnh hành, nhứt là các cô bác phải đi làm mướn hay đi xa, mang theo cái nóp có thể ngả lưng ngủ bất cứ nơi nào. Hình ảnh cái nóp đã đi vào “lòng dân tộc”, mà chính tác giả cũng khó quên dù sau hơn nửa thế kỷ.
- cá lóc (tray rot), hay là vì loại cá nầy mạnh lắm, luôn tìm cách vùng vẫy, lóc đi mất?
- cá tra (do tiếng “trêy pra”)
- thau lau (sralau), là loại gỗ quí.
- sầu riêng : (turen). Đây là trái cây đặc sản miền Nam. Sầu riêng được du nhập từ Cam Bốt, thân cây cao cả 20 mét, trái mọc treo lơ lửng, to khoản trái dừa và bên ngoài là gai nhọn, bên trong gồm những múi to chín màu ngà vàng rất thơm ngon (nhưng người không thích lại chê thúi và trên phi cơ trái nầy bị cấm mang theo). Trái sâu riêng nghe  ngồ ngộ, và có cả câu chuyện tình lâm li. Chàng trai Việt có vợ người Miên, vợ bị chết, chàng trở về xứ mang cả mối . « sầu riêng ». Có lẽ cũng từ tiếng  « turen » mà nay trong  ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức...  gọi sầu riêng là « durian ».
- tha la ( sa la). Đây là một từ thật đặc biệt, người ta có thể nghĩ đây là danh từ riêng hoặc chỉ có ở một nơi nào mà thôi. Thật ra « tha la » là tiếng Miên, có nghĩa là chòi nhỏ, trạm... bên đường, nơi người qua lại...  Xưa kia không có quán giải khát, nên dân địa phương che cái chòi, với khạp nước để khách qua đường uống. Do vậy, « tha la » chỗ nào cũng có và đây là hình ảnh dung dị, nói lên « tình làng nghĩa xóm » của người Miên và Việt ; nhưng khi đề cập đến «  tha la »,  người ta thường nghĩ đến « tha la xóm  đạo » nơi tỉnh Tây Ninh, có lúc thuộc Hậu Nghĩa. Theo dòng thời gian, tha la xóm đạo dựng lên, bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh, rồi lại tu sửa, nhưng mãi mãi lầu chuông vẫn còn đó... để chàng thi sĩ Kiên Giang, tuy là người ngoại đạo đã rung cảm khi tìm đến, trải lòng mình qua mấy vần thơ :
                    Lâu lắm không về thăm xóm đạo
                    Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường.

Trương An Ninh
Mời xem tiếp phần 6

 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual