HƯƠNG VỊ QUÊ NHÀ




Gọi rau cần dày lá hay rau tần dày lá để phân biệt với cần tàu. Ðây là loại rau thơm, cao vài tấc, thân chia nhiều nhánh, với lá to hơn lá rau má, nhưng dày hơn và mặt trên có nhiều lông tơ nhỏ. Rau có mùi thơm hăn hăn the the, mà hầu hết người Việt mình thưòng dùng cho vào nồi canh chua, cùng với lá quế, ngò om, ngò gai... Rau khá dễ trồng, chỉ cần cắt nhánh dăm xuống đất, nhưng nó chỉ sống và phát triển tốt trong các xứ vùng nhiệt đới hay trong muà nắng nóng. Ðến mùa đông lạnh bên Âu Mỹ, lá tàn rụi, nhưng cọng vẫn còn xanh đợi đến mùa xuân sau lại đâm chồi... Ðây cũng là “cây thuốc” để trị cảm ho khá hiệu nghiệm, khi bị cảm ho khan, hái năm bảy lá nhai với chút muối sẽ hết ngay. Ngày nay định cư tại Mỹ, sau mấy lần “dọn ra, dọn vào”, nơi nào tôi luôn trồng các loại rau cần nước, rau đắng, mồng tơi, dùng nấu canh, nếu được lại trồng giàn bầu, khổ qua, bụi mía hay to tát hơn là bụi chuối... Đặc biệt, húng quế và rau tần dùng bỏ vào nồi canh chua, thì không bao giờ thiếu vắng, không phải mua. Thật ra, mua cũng không đắt và khó khăn gì, vì ngày nay người Việt mình sống tràn lan tại vùng Nam Ca li. Thêm nữa, siêu thị bán hàng hóa Á  Đông và Việt Nam dẫy đầy, rau thơm bó sẵn mua về ăn hay làm giống trong chậu  bán ê hề. Gian hàng và tiệm ăn Việt Nam quá nhiều, dường như mức cung hơn cầu hay sao mà từng lúc phải cạnh tranh bằng cách “ốp” từ 40 đến 50 phần trăm. Người viết không cố ý “làm phóng sự” nên miễn tìm và ghi con số thống kê. Từ cá nhân mình suy rộng ra, cùng những lần”đi khảo sát âm thầm” thì dường như nhà nào là “nhà hao”(house) trong vuông rào lấp ló bụi chuối, cây mía, cây ổi-sau nầy thêm mấy tượt thanh long- thì “chém chết” chín mươi phần trăm là nhà của Việt Nam mình. Những gia đình thuộc thành phần “lô in com”,  không có đất thì luôn trồng vài bụi sả, hành, mớ rau thơm, và thường nhứt là vài cây quế, rau tần dày lá để nấu canh chua. Như đã nói, rau tần thì dễ trồng,  ngò gai và ngò om thì chịu thua. Tôi cũng nghe lời bà con mình chỉ ”bí quyết” trồng ngò om, phải lấy ny long bọc úm lại, tưới nước vừa phải... ôi thôi mệt xác. Bản thân mình vào lứa tuổi ”bảy mí” lo thân không xong, lại phải lo o bế  ngò om thì... mệt muốn chết. Thôi thì tốn năm ba đồng, ra siêu thị rinh về một chậu  cho khỏe thân. Đồng thời cũng là một hình thức nâng đỡ một ngành trồng trọt chuyên nghiệp của một số ít bà con chuyên sống về nghề trồng ngò om và cần nước bỏ mối cho các siêu thị. Nhưng mà, theo một khía cạnh tâm tình, ta  thấy bà con mình đa số chăm chút từng cọng rau vừa kể, dường như đây là một hình thức nuôi dưỡng hương vị quê nhà ngay tại nơi mình ở. Mà thật vậy, không phải chỉ tại Mỹ, nơi các quốc gia khác, nơi nào có người Việt là có rau  răm, rau quế, rau tần mà tôi muốn ghi lại coi như chút hương vị quê nhà luôn phảng phất đâu đây trong lòng chúng ta.


Riêng cá nhân tôi, hình ảnh những cọng rau đã luôn đậm nét, khởi đi từ năm 1945. Lúc đó mới vừa hai tuổi và “cách mạng mùa thu” gì đó nổi lên, lại thêm nạn “cáp duồn” tại vùng Sóc Trăng, gia đình tôi phải “chạy giặc”, qua tuốt miệt cù lao Dung là vùng “giải phóng”. Đây là nơi hoang vu, trên bờ muổi mồng và chim, khỉ, chồn, rắn mặc tình sinh sôi nẩy nở; dưới nước bất cứ chỗ nào có nước là cá tôm tự do sinh đẻ, chẳng biết “kế hoạch” hay “hạn chế sinh đẻ” là gì.! Cá tôm nhiều, ôi thôi vô số, ngay cả cái ao sau nhà,  khi mưa xuống nước đục, cá chốt và tép đất  nổi đầu quơ râu thấy mà ham, tôi chỉ ngồi trên mé cầm rổ  hớt cũng dư ăn cả ngày... Khi tình hình tạm êm, ông nội lén về “thành” (tức chợ Quận) tìm mua miệng chài thì... lại là “tai hoạ” cho cả nhà.  Gọi  tai hoạ,  vì từ khi có miệng chài, ba và nội tôi lại đi chài, mỗi lần cá tôm các loại vài ba chục ký là thường, ăn sao hết lại phải xẻ phơi khô, làm mắm. Làm thét, bà tôi và các cô mỏi cả tay và thiếu cả hủ để đựng, mà lu hủ là thứ khó kiếm còn phải ưu tiên chứa nước mưa để uống. Cù lao Dung là vùng đất hoang vu do phù sa sông Cửu Long tạo thành mà bao năm hầu như chưa ai khai phá trồng trọt nên phì nhiêu vô cùng, trồng thứ gì cũng xanh tốt... Chẳng biết lấy giống từ đâu mà bà tôi trồng đủ thứ rau, trong đó rau ngò om, ngò gai cây quế và cây cần dày lá nhiều nhứt để nấu món canh chua. Canh chua là món dễ tạo sự ngon miệng, thường nấu với cá lóc ký (nặng cả ký), cá trê gừa trắng, cá lăng hay cá ngát, cùng bần chín, trái giác, vì me mua từ thành về đôi khi không đủ xài. Nấu với thứ nào cũng được, nhưng phải đủ rau mùi trong đó có rau cần.


Rồi theo dòng thời gian, hình ảnh ”cách mạng mùa thu” gì đó cũng héo úa như chiếc lá mùa thu rơi rụng, riêng tại miền Nam hầu hết mọi nơi được “tái giải phóng”,  thoát khỏi sự kềm kẹp của “quân giải phóng”, đời sống người dân bình yên, no ấm, dễ thở  hơn... Vào khoản 1951, đại gia đình tôi “trốn” giải phóng, về thành phố vùng “quốc gia”... Gia đình về thành, sống nơi chợ Quận, lên tỉnh, lại lên Sài Gòn, hai cô lập gia đình, phần tôi đi học, đi làm quan, đi vào vòng xoáy cuộc đời, đi tù, đi mãi theo vòng xoáy cuộc đời...  đến ngày 75 đen tối ập đến, biết bao đoạn trường ngăn cách phân ly. Người cô theo bên chồng định cư tại Pháp, phần tôi theo tiếng gọi của “Ủy ban quân quản”, được tạm “định cư” nơi trại tù vùng Việt bắc .! Cô cháu chúng tôi xa cách cũng gần 20 năm mới được “đoàn tụ” tại hải ngoại., “đoàn tụ”qua những cuộc điện đàm. Trong cuộc điện đàm năm trước, cô tôi bỗng bật khóc: ”Con à, con có ý định qua thăm cô thì nhanh lên, kẻo không kịp con ơi...”  Câu hối thúc ngắn ngủi như một mệnh lệnh, thật vô cùng xúc động và tôi không thể chần chờ nữa. Thú thật, từ thuở nhỏ, khi bắt đầu học đếm “on, đơ, troa. “,  được nghe nói về nưóc Pháp với tháp Eiffel hùng vĩ, với dòng sông Seine trữ tình, với cung điện nguy nga., tôi luôn mơ ước có một ngày.” đi Tây chơi”. Nay mơ ước đã thành, từ Mỹ qua thăm bà con bên Pháp có cái sưóng là ”Việt kiều đi thăm Việt kiều”, không quá “đau đầu” lo chuyện quà cáp,  chỉ hơi “mệt”, phải lo ôn lại một số tiếng Pháp mà trên 40 năm rôì không xài tới, chúng đã trốn chạy mất tiêu !!!.


Thời gian từ Cali đi Pháp không lâu lắm, chỉ sau khoảng hơn 10 giờ bay, phi trường Charles De Gaule đã xuất hiện bên dưới chiếc Airbus. Thủ tục quan thuế khá nhanh gọn, tôi chỉ có dịp trổ tài nói tiếng “merci”(cảm ơn)  cùng “búa xua” (bonjour- chào) đứa em rể, nhưng  sau vài tiếng thăm hỏi là... “ngọng” luôn. Thật nhanh trí, tôi liền vừa “xổ” tiếng Anh và... tiếng “quơ tay” đến mệt nghỉ, đứa em rể cũng dùng tiếng Anh. May mắn vô cùng, tôi nói tiếng Anh giọng Pháp, cũng như đứa em rể là người Pháp nói tiếng Anh giọng Pháp, nên rất cùng tần số, thoải mái và dễ dàng hiểu nhau... Về đến nhà đứa em, cô tôi đã chờ sẵn. Niềm vui hội ngộ nào mà không nước mắt. Cô tôi ôm hôn vợ tôi và... tôi :

-“Cô mừng quá con ơi! Thiệt tình cô không dám mong có ngày cô cháu mình gặp lại nhau. Ngày cô ra đi, thì con đang trong tù... “


Tôi chỉ im lặng, chẳng biết nói gì hơn, mặc cho những giọt nước mắt trực chờ tuôn rơi. Sống bên Pháp, chuyện ôm hôn người thân rất phổ thông, nhưng riêng tôi cảm thấy ấm áp vô cùng. Và cũng thấy mình phút chốc trở thành bé thơ, dù tuổi đời đã trên sáu mươi lăm... Hôm ấy cô với gương mặt rạng rỡ tràn ngập niềm vui, ân cần nhìn đứa cháu thân thương:

-“ Con mở bánh ăn đi, cô mua ... đãi con đó. Ðây là petit beurre hiệu L.U, nhớ hồi xưa, con rất thích ăn loại bánh nầy”

- “Dạ, cảm ơn cô. Bên Mỹ bánh kẹo sô cô la đủ thứ, “petit beurre”cũng có, nhưng  hiếm lắm,  và ít có chính hiệu”


Thú thật, đôi lúc cũng phải... ba xạo, như trong trường hợp nầy, để cô vui. Bên Mỹ, bây giờ các loại. sản phẩm của Pháp nỗi tiếng bán ê hề... như bơ “Bờ rờ ten”, phô mai ”Con Bò Cười”, tàu vị yểu “Ma gi”... Miệng nói, nhưng tôi vẫn mở gói, nhâm nhi vài cái.  Mọi người tíu tít trò chuyện, xem hình, riêng tôi, liếc nhìn cái chậu đặt trên bệ sát cửa sổ. Sao thấy hơi quen quen. Cây nhiều cành gồm những cọng to chừng thân chiếc đủa với lá xanh lợt, tròn to hơn đồng xu... Tò mò, bước đến nhìn kỹ:

-“Hình như đây là rau cần... phải không cô”. Tôi buột miệng hỏi:

-“Ờ, đúng rồi. Ðây là chậu rau duy nhứt cô có được. Cô đặt nơi cửa sổ, mùa hè nóng, lá cũng khá xanh. Nay trời lạnh, ít khi mở cửa, nên trông nó èo uột, lá nhỏ xíu.

Rồi cô bỏ lửng, vẻ mặt hơi buồn, tiếp:

... Cô định  bỏ chậu rau, nhưng... con biết không... lâu lâu  lại thèm món canh chua..., hái vài lá  bỏ vô cho có mùi... Từ đây đi Paris hơn 50 cây số, cô không muốn làm phiền con. Vả lại, bên nầy mùa lạnh thường bị ho, ngắt vài lá nhai với muối...  đỡ  lắm“

Ðể phụ hoạ, tôi nhanh miệng tiếp lời:

-“ Con nhớ rồi, hồi đó mỗi khi bị cảm ho, cô bắt con nhai lá rau cần nầy và... đè con ra cạo gió đau... muốn chết”

Cô lại cười tươi:

-“Vậy mà ... hết đó con...”

Rồi cô bắt đầu quay lại cuốn  phim hơn 60 năm về trước, khởi đi từ những ngày cực khổ bên vùng cù lao... Thật cũng không lạ gì, là người lớn tuổi gần kề hàng tám, thường sống bằng quá khứ, cũng như tôi đây... biết bao hình ảnh xưa còn nhớ mãi...


Và rồi, suốt thời gian “Tây du”, hầu như luôn phải vật lộn với thời gian, vì được hướng dẩn thăm nhiều nơi, vài nhà bà con bản sở cách gần nửa thế kỷ trước, nhưng có lẽ kỷ niệm nhứt vẫn là những lần được cô  hướng dẫn đi bằng xe điện. Thật tội nghiệp và thương cảm làm sao. Hình ảnh một bà lão gần tám mươi, lưng hơi còng, tay cầm gậy, hướng dẩn  chúng tôi lên xuống các trạm xe  điện chằng chịt hay giữa phố phưòng nhộn nhịp nơi ánh sáng thành đô Paris, khiến tôi không khỏi ái ngại... Bên Pháp, ngay tại thủ đô và cả vùng ngoại ô, nhiều khu chung cư (bâtiment) cao trên hai mươi tầng, với vài trăm căn hộ, diện tích căn hộ thay đổi, từ hai mươi đến năm sáu mươi mét vuông... Lần đến nhà người bà con mãi tận lầu thứ 15, cũng thuộc hàng khá giả, người nầy qua định cư sớm, có dịp mua cả hai căn liền nhau, đục tường thông thương, biến thành căn nhà với cả 6 phòng, đủ cho các con... Là chỗ cùng quê, cô cùng các vị ấy chuyện trò rối rít... phần tôi, đến bên cửa, thích thú nhìn Paris từ trên cao. Từ tầng cao, trông Paris đẹp thật, với tháp Effel, nhưng sao có cả những cọng rau cần... À, thì ra một chậu rau cần kê bên kệ cửa sổ xen vào tầm nhìn. Tôi, tay cầm một nhánh cau tần, nhìn chủ nhà, pha trò cho vui:

-“ Dạ,  cháu đoán chắc hai chú thím thích  món canh chua... “

-“A, à. thì cũng thích. Thỉnh thoảng nấu chút canh, không có dịp đi phố hái vài lá bỏ vào cũng  có mùi...“

Ngưòi chủ nhà vui vẻ trả lời sau vài giây ngờ ngợ vì câu hỏi hơi lạc quẻ của tôi. Liền đó, bà chủ tươi cười tiếp lời:

-“Bên nầy giống rau canh chua hơi hiếm, có mấy Super-Marché Tàu Việt (siêu thị), nhưng ít bán rau canh chua, thì cũng cô Tám đây cho mấy nhánh rau cần làm giống “

Rồi như để tìm” đồng minh”, bà ấy quay sang cô tôi:

-“  mà cô Tám biết... rau cần trị ho hay thiệt... nhứt là mùa nầy, dễ bị cảm ho, hái vài lá. . “


Lần đến nhà  em chồng của cô, sống một mình  ở mãi trên tầng 18, chúng tôi phải chia ra 2 tốp, mỗi tốp 2 người chờ lên  thang máy. Trong các khu chung cư bên Pháp, thang máy hẹp, thật hẹp, nhỏ con xen vô một lượt chỉ hai hay ba người... Không như các chung cư tại Nam Cali đa số dưới đất đi lại ra vào dễ dàng. Bên Pháp căn chung cư na ná như chuồng cu, chỉ có cửa sổ ít khi có cửa trổ ra một “ban cong” nho nhỏ. Để có chút “không gian sinh tồn”, một miếng bợ bằng lưới de ra, trên đố đặt vài chậu nhỏ. Tôi để ý nhìn thấy chỉ toàn các loại rau như quê, rau tần và đặc biệt một chậu khá to với dây bí rợ dây leo chằng chịt, với năm bảy trái tròn như trái chanh... Cô ấy được dịp khoe, mặc dù chậu rau cần nầy cũng không khác gì nơi nhà cô tôi, với những nhánh nho nhỏ, èo uột mà lá chỉ lớn hơn đồng xu, màu xanh nhòn nhợt. Thật dễ hiểu, rau xanh miền nhiệt đới đầy nắng ấm và nóng, nay trồng trong chậu nơi cao gần 20 tầng, với vài tia nắng hiếm hoi, làm sao có thể xanh tốt. Cũng như, những người Việt tha hương, dù là  nơi “nắng ấm” Cali,  dễ gì có được đủ hơi nắng ấm lòng  như chốn quê xưa!. Bất giác, trong tôi bỗng gợn lên những triết lý vụn vặt. Các vị lớn tuổi, sống đơn độc nơi xứ người, như dây bí rợ trong chậu nhỏ, cũng ra trái, nhưng sao đậu trái và phát triển, rau tần thì với những nhánh èo uột, lá bằng đồng xu nhờn nhợt... Còn sống đã là may rồi.


Sau đó, vợ chồng tôi đến với gia đình anh bạn, là dân cùng trưòng H.C đang cư ngụ tại Marseilles. Từ Paris, sử dụng xe TGV (Train à Grande Vitesse), tốc độ trung bình 300 km/giờ, nên chỉ cần đúng 3 giờ chạy là đến nơi. Dọc đưòng, những  thành phố xa xa, những làng quê trải dài, có nơi chỉ vài mươi căn nhà, đa số lợp ngói đỏ và những “cây “rơm cỏ chi đó chắc để làm thức ăn cho  gia súc. Ôi, trông sao hơi giống quê mình... Vừa đến sân ga, đã thấy vợ chồng anh bạn đứng đón, khỏi phải tả cảnh, nổi mừng vui” tha hương ngộ cố tri” đầy xúc động thế nào rồi. Từ sau 75, chúng tôi đi tù, gặp nhau tại Sài Gòn, tiếp theo kẻ trước người sau bị cơn lốc xoáy của thời cuộc ném vút ra khỏi mảnh đất quê hương. Nay gặp lại trên 15 năm xa cách biết bao đổi thay mà thời gian như không bao giờ quên sử dụng quyền uy tuyệt đối và hung bạo, khắc  những vết hằn sâu  dĩ vãng  mà tụi tôi đã nhận ra  của nhau trên từng gương mặt... Về tới nhà, sau vài phút, món bánh cuốn được dọn ra. Bánh và chả lụa thật nhiều, nhưng le que vài cọng rau quế, hún cây xắc mịn nhỏ, nhỏ như không thể còn nhỏ hơn... Tại thành phố cảng nầy, ngưòi “mình” không đông lắm, có vài siêu thị bán gần như đủ các món Việt Nam... Nhà anh bạn chỉ ở lầu 3, sau khi no bụng, bưóc ra nhìn xuống phố và nhìn quanh quan sát, bên kia đưòng là một tiệm cà phê với những bàn ghế bên mái hiên. Pháp và Việt Nam cũng giống nhau phần nào, phố thị có cửa hàng, thực phẩm hàng hoá được bày ra trước hàng hiên, cùng những quán cà phê nho nhỏ theo lê đường. Trời chiều dần xuống, không khí thành phố cảng se lạnh, những ngưòi khách địa phương vẫn thoải mái an nhiên ngồi thưởng thức cà phê. Rồi tôi lại nhìn quanh khoảng “balcon” nho nhỏ, nhận ra các chậu cây kiểng gì đó, được che phủ khá kín  Lại đến gần, nhìn xem thử và... đúng rồi, lại một chậu rau cần nằm xen lẫn vài  chậu khác.


-“ Tưởng chỉ mình bên Mỹ có trồng thứ rau nầy (rau cần). Qua đây, đến mấy nhà “người mình” đều thấy ...” Tôi mở lời và anh bạn cười ha hả:

-“ Phải có thứ nầy mới được... Không có thứ nầy là chịu thua. Lâu lâu lại thèm canh chua... Ở đây hầu như cái gì cũng có, nhưng rau  răm và rau canh chua hiếm lắm, nhứt là vào mùa lạnh... Lúc nầy lạnh vừa vừa, mai mốt mang nó vô nhà, để gần bên lò sưỏi” úm” kẻo nó cảm lạnh, chết... “


Chúng tôi cũng đến thăm vài ngưòi bà con khác tại khu vực ngoai ô Paris. Người mình, đa số chọn nơi xa xa vì nhà cửa dễ tìm và tương đối rẻ hơn... Du lịch qua Pháp, biết bao nhiêu  điều cần viết thành phóng sự, như là giá sinh hoạt, và hiện tượng ”người Việt gốc Hoa”. Cụ thể giá thực phẩm mắc hơn bên Mỹ khoảng 50 phần trăm, thí dụ giá một con vịt Bắc Kinh quay là 18 “ơ rô”(Euro) Lại Bắc Kinh, lại liên quan đến... Tàu nữa. Thú thiệt, từ lâu tôi hận thù bọn Trung Cộng “đại hán” ngang ngược, không bao giờ muốn nhìn bọn chúng… Tôi hoàn toàn không hận thù ngưòi Trung Hoa, nhưng... khổ nổi, chỗ nào cũng thấy người Trung Hoa nhan nhãn, bực bội !!!  Bên Pháp, cụ thể tại khu vực Quận 13, từ siêu thị, các tiệm buôn ngoài chữ Pháp có thêm chữ Việt, hay cả Việt và Tàu. Nhìn kỹ và ước lượng rõ ràng người Tàu nhiều hơn Việt, dù họ nói tiếng Việt khá rành. Có thể nói một Chai na thao” (China Town) đã hiện hữu tại Paris từ lâu. Như tại Quận Cam, tiếng là siêu thị Việt Nam, nhưng xem kỹ ra chủ nhân đa số là Tàu cả, cái “Phưóc Lộc Tho” to đùng là của “chú” QTP chứ nào phải Việt đâu... Riêng tại vùng Los và San Francisco khu phố Tàu đã rõ nét từ lâu và đã chánh thức mang tên. Còn nhiều, và nhiều chuyện khá lạ nữa, rất tiếc không thể ghi lại trong bút ký nầy.


Tiếp theo, chúng tôi cũng được vợ chồng cô em họ chở qua Bỉ, Hoà Lan và Ðức chơi cùng thăm bà con. Tôi có đứa em họ sống tại vùng quê, cách thủ đô Amsterdam (Hoà Lan) vài chục cây số. Từ ngày thành một khối Âu châu, biên giới các nước hầu như không còn nữa. Thật vậy, ngay biên giới chỉ là trạm ghi mấy dòng, vài bảng mủi tên chỉ hướng, hoàn toàn không một bóng dáng ngưòi lính “biên phòng” nào cả, và tôi chẳng phải có sẵn trong túi tờ ”visa’ như khi về thăm quê Mẹ thân yêu. Một niềm tái tê đau nhói và buồn tủi, tại sao Trung Cộng sang Việt Nam một tháng ( hay đang tràn sang “làm ông làm cha” dân mình), không cần Visa,  mình là” khúc ruột ngàn dậm”, về thăm nhà lại phải visa ?... Tại sao đến bây giờ, quê hương “dấu yêu” của  tôi vẫn tồn tại  muôn ngàn, điều ”không hiểu nỗi”. Tại sao ???


Trở lại với Hòa Lan với nhiều nét độc đáo, trong đó dễ nhận và dễ thương nhứt là rất nhiều ngưòi dùng xe đạp. Loại xe đạp vòng bánh hơi to và”bình đẳng “với xe hơi, vì tôi để ý thấy hầu như nơi nào xe đạp cũng tự do, không bị cấm cản. Hình ảnh độc đáo kế tiếp của Hoà Lan là ngay trung tâm thủ đô, có nơi cách vài chục mét là con kinh đào không rộng lắm với nước trong xanh và sạch vô cùng. Lại so sánh, ôi thôi. Tại vùng quê rải rác nằm im lìm những cối xay gió với cánh quạt to hàng khoản vài chục mét, nghe nói chỉ là hình ảnh kỷ niệm, vì nay dùng cối xay gió không ”kinh tế” chút nào cả. Hình ảnh “đặc trưng” khác của thủ đô Amsterdam là “khu vui vẻ” công khai dành cho quí ông. Xin miễn đi vào chi tiết, quí ông nào muốn biết thì ráng năn nỉ bà xã cho đi một lần. Nét dễ thương dung dị khác của Hòa Lan là dọc theo đường quê nhiều đám bắp khoảng năm bảy công, (năm bảy ngàn mét vuông) đàn bò vài chục con, không vĩ đại như bên Mỷ, nhìn hao hao sao giống Việt Nam mình. . .


 Ðến nhà đứa em, sau những giây phút “tình cảm lê thê”, cô em lôi trong tủ lạnh ra một đùi thịt bò khiến tôi ngạc nhiên không ít. Vừa chủ khách gồm tám người mà đống thịt khoản  hai chục ký, không kể phần xương thịt chi đó trong nồi súp to gần bằng cái nồi dùng nấu bánh tét. Như để xóa tan ngạc nhiên của chúng tôi, cô em cười tở mở:

-“Ở đây, thịt bò rẻ mà. Mua nguyên một đùi, ăn cho... đả. Lâu lâu có anh bên Mỹ qua. “

Tôi cưòi giả lả:

-“ Cảm ơn... mà thịt bò tươi quá “. Cảm ơn nhưng trong... bụng thấy tức cưòi, bên Mỹ  đâu thiếu thịt  bò, chỉ khác thịt bò nơi nầy tươi, vì là vùng quê., nghe nói xẻ thịt bán liền.

... Suốt chặng đưòng từ Paris qua, bụng đói, mọi ngưòi thưởng thức món phở thật no nê và ngon lành. Không ngon sao được, từ nồi súp ngậy mùi xương thơm ngọt, những lát thịt tươi tươm màu... máu ! hành trần và một mớ rau quế, ngò mua từ Pháp. Cô em tươi cưòi hớn hở, vừa ăn vừa “giải bày tâm sự” :

-“ Sau nhà còn cây quế, nhưng để dành, mùa lạnh tới, càng hiếm hơn. Mớ rau cần dì Tám cho, nhân giống ra hai chậu cũng còn... Phải để dành nấu canh chua… Mà phải che thật kỹ, bên nầy lạnh lắm, lát nữa ra coi cái nhà kính.”


Cái “nhà kính” chỉ nhỏ như môt chuồng gà, khoảng hai mét vuông, che chắn khá kỹ, bên trong, khoảng mươi chậu bông hoa cùng quế thơm và rau cần. Rồi hôm sau, chúng tôi men theo đường biên giới nước Ðức và đứa em rể lại lạc vào xứ sở của ông trùm Hitler mà không hay. Lại lật bản đồ và hỏi thăm đưòng đi đến thành phố khác để thăm ngưòi bà con bên chồng cô tôi nơi vùng quê, xung quanh nhiều thửa hoa mầu chạy thẳng tấp. Nhà bên Hoà Lan, nhưng họ làm việc bên Ðức, chỉ cách nhau năm bảy cây số. Ðiều đáng nói ngay vùng quê, tôi chưa bao giờ thấy một đống rác hay vũng lầy... Vì có hẹn trước nên khi vào nhà thấy ngay bàn ăn chuẩn bị sẵn.. Hôm nay, chủ nhà đãi món gà xé phai có rau răm đầy đủ, lẩu hải sản và vài món khác thật giống như tại quê mình ngày xưa. Ðây là vùng quê, nghe nói chỉ vài gia đình Việt Nam lạc lòai đến đây, vì dễ tìm việc làm bên Ðức, vì vậy có bà con từ xa đến, ôi thôi mừng mừng tủi tủi, trò chuyện râm ran không dứt ra được… Phần tôi thưòng lại thích ra vườn sau nhà, tò mò xem cây trái ra sao, có giống như bên Mỹ không. Trong nhà, lại nhìn thấy chậu rau cần bên  cửa sổ cùng một bình thủy tinh khá to, không phải trưng bông mà là mà rau  răm. Tôi được nhìn tận mắt cách trồng rau răm hơi mới lạ... Một chút ngạc nhiên, tôi nhận ra một mớ rau răm to bằng bắp chuối khá xanh tốt, bên dưới tua tủa rể trắng xoá... Bà chủ nhà cũng  khoảng trên bảy mươi, gọi cô tôi bằng “chế “ (chị), không phải đợi hỏi, đã bộc bạch:

-“Lúc nầy vậy chớ chừng tháng nữa, tuyết rơi lạnh lắm. Mấy năm rồi, rau răm đựơc trồng trong bình bông, ăn gà xé phai có nó mới thơm, còn rau cần thì nấu canh và trị ho, tại vùng nầy không có mấy loại  của mình“.


… Không rõ các xứ khác thế nào, riêng tại Mỹ ngày nay nơi nào có người Việt và thời tiết cho phép, như tại vùng Nam California, ta thường thấy đó đây những giàn bầu mướp, bụi chuối, cây ổi. hiên ngang vươn cao vượt khỏi bờ rào  và chắc chắn chủ nhân là “người mình”. Riêng các loại rau thơm, rau cần hay rau đắng thường trong chậu  đặt sau nhà  ít trông thấy nhưng hầu như nhà người Việt nào cũng có.


Sau mấy mươi năm, hương vị quê nhà Việt Nam lan tỏa mọi nơi có người mình sinh sống, qua những siêu thị, tiệm ăn mì phở, bánh cuốn, bún bò… Nhưng là con người, đâu phải chỉ nhớ quê qua những món ăn., hương vị và hình ảnh quê hương còn là những con diều biếc, là dòng sông nhỏ, là con đò sớm chiều đưa khách sang sông, là những câu vọng cổ mùi mẫn và... cũng có thể là chùm khế ngọt. Than ôi, làm sao tìm thấy nơi xứ xa nầy con đò nhỏ ven sông, cũng như tại quê nhà chùm khế ngọt chắc chắn không còn đâu, vì người ta chẳng những trèo hái mỗi ngày mà thẳng tay đốn cả cây, lặt sạch sành sanh mớ trái cả rồi. Giờ đây, nơi xứ xa nầy, hình ảnh gợi nhớ quê hương thật dung dị làm sao. Đó chỉ là “bụi chuối, bụi mía  hay là rau đắng sau hè”, chậu rau cần dày lá... Chậu rau mà mươi năm rồi tôi luôn nâng niu chăm chút... Mới hôm rồi tôi đã mang nó đặt  khuất vào góc hiên sau, chiều xuống lại ra lấy thùng giấy to úp che hầu tránh cơn rét ùn ùn kéo đến bủa vây… Hồi xưa, nơi quê nhà thuốc men dùng trị bênh hơi hiếm, rau tần dùng nấu canh chua và trị ho. Nay thuốc trị bệnh ê hề và công hiệu hơn nhiều, nhưng không thể nào trị được bệnh...nhớ quê hương... Biết đến bao giờ nhìn thấy từng nhánh rau cần vươn lên xanh tốt khi đông về. Và “nếu chỉ còn một ngày để sống”, tôi vẫn khao khát đợi mong. Ngày đó sẽ không còn mùi thù hận, mùi độc ác dã man vô cảm, mùi dối gian người và chính mình, mùi ngăn cách phân chia,

                    “Quê hương mình ai không nhớ không thương

                    Phải xa cách là đoạn trường cay đắng .

Người Việt Nam tôi phải đắng cay biết đến bao giờ...

Viết đến đây, tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Một đắng cay đến xé lòng vì đã hết rồi hương vị quê nhà. Hết thật rồi, người Việt chúng ta hoàn toàn không tìm thấy đâu hương vị quê nhà nữa rồi. Mùi xì dầu, mùi hôi hám của luồng gió cực độc “đại hãn” đã lan tỏa từ các tỉnh phía bắc, từ mỏ bauxite ở Đà Lạt, Đắc Nông,  từ phố Đông Đô gì đó ở Bình Dương và hàng chục hàng trăm “khu tô giới” khác chắc chắn sẽ mọc lên khắp cả. Ôi, còn đâu Việt Nam tôi.

Nguyễn Việt Nam



Anh Tâm Quách cung cấp

 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual