BÀ VỢ THỨ



       Hằng năm gần Tết, nếu có dịp về quê tảo mộ ông bà bên ngoại, Chi cũng không quên đến chúc Tết sớm trước bà mợ vì đó là người còn sống thọ lâu trong gia đình. Đặc biệt hơn, mợ là người vợ thứ của cậu Chi. Thời phong kiến các ông có vợ chánh thất rồi mà còn có quyền thêm hầu thêm thiếp, vợ một vợ hai . Dù chính thức hợp pháp hay không, thông thường họ không được chấp nhận ngang hàng với các bà cả dù có đám cưới sau khi bà cả không còn nữa. Người đời gọi họ vợ thứ, vợ kế, thứ thất, vợ bé, bà sau, dì hai, má ghẻ, thường ít được cảm tình kính trọng mà có vẻ bị chê bai khinh thường. Các người con dòng lớn cũng không quên câu:
                                           “Mấy đời bánh đúc có xương,
                                   Mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng.”

     Thật ra so sánh với lối sống càng ngày càng phóng khoáng tự do theo trào lưu tiến bộ nhanh đến chóng mặt, phải công nhận thân phận phụ nữ Việt ta thời trước có nhiều ràng buộc cứng rắn quá. Khung son tứ đức lồng nổi bật đóa hoa tam tòng khép kín đời của các bà âm thầm trong bốn bức tường gia đình như những cung vàng điện ngọc giam giữ phi tần cung nữ suốt đến cuộc đời.
     Nghĩ cũng lạ, nói chung các ông thương yêu kính quí mẹ mình nhưng lại thường quên quan tâm lưu ý đến bà mẹ của con mình. Vậy trong tình phu phụ, chữ ‘phụ’ nầy vừa có nghĩa là vợ mà vừa còn là giúp, phụ tá mà thôi chứ không phải nam nữ bình quyền. Các ông được xã hội xưa cho cái đặc quyền đa thê, không phải chỉ tái giá ‘tục huyền’ sau khi vợ chết mà có khi bà nhà còn sống sờ sờ các ông mặc nhiên vẫn có quyền ‘ tìm của lạ ‘. Câu ‘Trâu tìm cột chứ cột đâu có tìm trâu’ còn chứng tỏ rằng giữa hai phái các ông luôn giữ thế chủ động, vậy mà phái yếu vẫn bị lên án phê phán khắt khe không khoan nhượng vì câu “luật bất thành văn” nầy
                         “Trai năm thê bảy thiếp,

                             Gái chính chuyên một lòng”

Hơn thế nữa, đáng thương trường hợp người con gái nhẹ dạ bị gạt lầm lỡ một lần cũng bị lên án gắt gao, còn tội ngoại tình thì bị xử nặng nề không dung tha. Câu ‘ông ăn chã bà ăn nem’ vế đầu hợp lý  cho phái nam chứ còn vế sau thì phải đổi lại ‘bà nhịn chờ’, cho dù có đói meo cũng cố mà dằn lòng, không được phép tùy tiện lên cơn ăn lén. Ngay cả trong Thánh kinh của đạo Ki tô cũng có chuyện’ người phụ nữ ngoại tình’ bị bắt quả tang. Theo luật Mô sê bấy giờ, phải bị ném đá cho đến chết, còn ở xứ ta không bị bêu đầu mà chỉ bị cạo đầu bôi vôi không phải để đi tu ‘cầu đạo’ đâu.
Nghịch lý nhất là các ông đã đề cao tấm trinh tiết của người thiếu nữ lên hàng đầu, thế mà chính các ông cũng là thủ phạm tàn nhẫn hái hoa bẻ nhụy không tiếc thương.Ngay các bà góa cũng khó thể ‘bước thêm bước nữa’ vì tiếng tăm gương tốt ‘’ tiết phụ khả phong ‘’.
Vẫn biết “Một vợ thì nằm giường Lèo,
                        Hai vợ thì nằm chèo queo,
                       Ba vợ thì xuống chuồng heo mà nằm “.
Nhiều ông cũng chẳng để ý chi.
        Tục ngữ có câu :’’Chết trẻ còn hơn lấy lẽ’’
        Ca dao cũng có: “Thân em làm bé người ta,
                         Nay tỏi mai hành khổ lắm anh ơi ! "
        Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã thông cảm hoàn cảnh và duyên phận hẩm hiu lẽ mọn :
                 ‘Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,…
                 Thà trước thôi đành ở vậy xong.’
Riêng về các bà vợ hầu thiếp ái thê mẹ ghẻ, sách sử cũng đã đề cập từ ngàn xưa và nước nào cũng có và ít khi được châm chế trong việc luận phê. Không phải chỉ có vua chúa với tam cung lục viện trong hoàng cung, mà quan lớn nhỏ đại gia trọc phú cho đến dân thường đều được thừa hưởng ân huệ đó do luật pháp chế độ phụ hệ phong kiến từ ngày xửa ngày xưa.
Pháp chẳng hạn có chuyện Blanche Neige et les sept Nains Bạch Tuyết với bảy Chú Lùn hay Cendrillon Nàng Lọ Lem trong đó bà mẹ ghẻ nào cũng độc ác. Một bà không con ganh tị cuống cuồng với sắc đẹp con chồng, luôn luôn phập phồng lo sợ mình không phải là người đẹp nhất trên đời. Quân sư cố vấn của bà là một chiếc gương thần tố cáo tên địch thủ nào vượt bà đoạt tước hiệu hoa hậu trên. Thế là từ lòng ganh tị sang thù hận dễ dàng rồi âm mưu bàn kế làm khổ nạn nhân cho thoả lòng tự ái, thế cậy quyền:
                 “Xưa nay hãm hại người ta đã đầy” (Nhị độ Mai)
Bà trong truyện thứ hai cho ta thấy bộ mặt khác của tính ganh tị mà con người căn bản ai cũng có. Tính nầy giống như con rắn mê hoặc Ê-và ăn trái táo cấm để rồi Nàng dụ dỗ A-dong ăn luôn, nhưng ông tổ loài người chỉ nuốt nửa chừng nên có truyền thuyết về cục xương ở cổ chỉ thấy rõ ở đàn ông mà người Pháp gọi là Pomme d’Adam. Có con càng nên trở thành ích kỷ hơn, bà mẹ ghẻ dành giựt hết mọi quyền lợi cho con riêng, đày ải làm điêu đứng đứa con mồ côi mẹ xấu số bạc phận không tiếc thương.
Các truyện nầy không khác mấy truyện Việt nam Tấm Cám và thầy Mẫn tử, vai đào độc nầy ngay trên sân khấu, phim, tuồng cũng bị khán giả ghét cay ghét đắng. Dù sao đáng thương nhất vẫn là những bà thứ không con, từng phục vụ chồng, gia đình chồng cho đến ngày ông mất đi, tuổi đời đã lớn, không có tài sản riêng, không còn ai trọng vọng cầm giữ nữa, các bà thường trở về ở với bà con của mình trong lúc xế chiều nầy. Đúng là 
« Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công. » (Hồ xuân Hương)
Phận người vợ sau đã khổ rồi huống hồ trong trường hợp người vợ còn sống mà ông còn tằng tịu với một hoặc vài bà nhỏ khác, và khó xử nhất người đến sau lại là em hay chị ruột của vợ mình.
        Ở các nước Tây phương, chuyện tái giá, tái hôn, tục huyền, ly dị xảy ra không làm ai ngạc nhiên hết, không còn sống hạnh phúc với nhau được thì đường ai nấy đi, không thù hận ? Cuộc chia tay tốn kém nhiều bút mực thuộc về những người nổi tiếng, minh tinh màn bạc như Liz Taylor, Brad Pitt, Madonna hay như cuộc tình tay ba của hoàng tử Anh Charles ngay khi công nương Diana còn sống, cũng là đề tài gây sốc một thời. Người dân Anh thương tiếc Diana nhưng cũng dễ dãi chấp nhận sự có mặt của bà tình địch của Diana.
Chuyện lộn xộn xôn xao của tổng thống Mỹ Clinton ngay ở tòa Bạch Ốc cũng chỉ củng cố địa vị của ông hơn.Thời sự nóng bỏng năm 2009 là bà vợ của Thủ tướng Ý Berlusconi hăm dọa ly dị chồng léng phéng với các cô người mẫu. Rồi ông cũng vẫn được bầu làm thủ tướng như thường và ông còn tuyên bố rành mạch vui vẻ :’ Tôi cũng chỉ là một người đàn ông’. Cố Tổng thống Pháp Mitterand, hồi còn sinh thời và còn tại chức, có con gái với bà thứ hai trước mặt thế giới thế mà vợ con bà lớn, báo chí trong nước có rầm rộ tố cáo gì đâu.
Như thế, ngay cả xã hội phụ hệ văn minh ngày nay như vô tình mặc nhiên bao che các ông hơn. Người ta tha thứ dễ dàng hơn chuyện ngoại tình của phái nam hơn phái nữ như chấp nhận ‘phu xướng phụ tùy’ chứ ‘chồng quì vợ dọi’ hay’ gà mái đá gà cồ’ là không hợp lý, bị người đời dèm pha chẳng tha. Tuy nhiên, thật ra không phải bà vợ lẽ nào cũng tệ, như trường hợp bà mẹ kế của thầy Mẫn tử đã biết cải hối phục thiện.
Trường hợp mợ sau của Chi là trường hợp điển hình khác nữa. Mợ Xanh là một bà góa có gia sản bên chồng để lại. Mợ cũng không tái giá nuôi con đến gần mười năm cho đến khi tình hình căng thẳng ở nông thôn. Pháp đi ruồng bố ráp luôn và phong trào chống Pháp đang tập trung lực lượng và tìm nơi họat động ở các xả ấp xa. Đàn bà góa thời bấy giờ giỏi dang có chút tài chút sắc, thật khó sống yên một mình nuôi con giữa hai gọng kềm và vây quanh bởi bao thành kiến phiền toái bực mình xuyên tạc. Ngay phần đông các bà cũng không thích chồng mình giúp đỡ người neo đơn đặc biệt nầy vì biết đâu ‘lửa gần rơm lâu ngày cũng bén’. Còn các ông, bản tính thường đã là phóng khoáng quảng đại, vì thế nếu ông nầy tỏ ra hào hoa nghĩa hiệp, ông khác cũng tự cho quyền cứ ỡm ờ thả rong xe dê tìm lá so đũa, đâu mất mát gì. Mà đến từng tuổi nầy tất nhiên các ông thường đã có gia đình hoặc suôi gia con cháu đùm đề rồi, ít còn người cu ky độc thân đâu.
Vẫn biết khó có thể ở góa mãi vì tuổi đời chưa bốn mươi, mợ Xanh còn được tiếng tốt chịu khó đảm đang tốt bụng, ở vùng xôi đậu tranh sáng tranh tối, ban ngày lo sợ bị lính lê dương Pháp ruồng bố, tránh đạn súng cối mortier, bom lửa napalm dội xuống các vùng bị tình nghi. Ban đêm là lãnh vực của du kích, đào hầm cho cán bộ nằm vùng, tích trữ lương thực, làm giao liên, tuyên truyền, chiêu mộ người hoạt động. Sau nầy chính nhà mợ cũng bị bom ra tro, cậu con trai duy nhất của mợ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc bên cạnh thằng bạn chết cháy co quắp đen như than.
Thời bấy giờ miền Nam còn là thuộc địa Pháp nên có phong trào ngấm ngầm hoạt động chống  xâm lăng đô hộ. Không phải chỉ có các sĩ phu  trí thức giàu sang mới chủ xướng việc đối đầu với kẻ thù, chính giới nông dân mới thuộc thành phần âm thầm hy sinh nhiều nhất. Mợ tự vừa làm ruộng trồng vườn vừa buôn gánh bán bưng, bán cháo lòng ở chợ. Ngày nào như ngày nào tờ mờ sáng gà gáy mợ đã quảy gánh nặng trĩu vội vã ra đi để cho kịp buổi chợ làng nhóm thường rất sớm.
 Ngày ngày đòn gánh tre oằn vai nhịp nhàng theo bước vội trên bờ con, chân bám mặt đường trơn trợt sau hay dưới cơn mưa gió mùa, mỗi bên chiếc thúng lồng trong đôi gióng với dụng cụ cần thiết. Trong chiếc gióng trước một nồi cháo ầm ĩ cho nhừ đặt trên bếp than lửa riu riu, bên trên tràng đựng thịt, lòng heo, chiếc gióng sau gồm chậu nước rửa, tràng tộ muỗng đũa, rổ rau, nước chấm gia vị, tất cả đều được sắp xếp gọn gàng bắt mắt phát thèm.
Còn nói chi đến việc trồng trọt, mợ Xanh có bàn tay ‘xanh’ như tên như mợ, theo cách ngày nay nói về môi sinh. Những liếp rau cải cần bẹ to xanh mướt, đám mía xào xạt với lóng dài to vàng óng, những cây bắp nếp thẳng tấp trổ cờ cao ngọn báo cho biêt năm đó trúng mùa và nhất là đám chuối sứ thế nào trong đó cũng có vài bụi chuối hột vì dân ta thích dùng lá, hoa chuối hột hơn của các loại chuối khác. 
Cây chuối, cây tre là hình ảnh nổi bật nhất ở đồng quê, cần thiết nữa nên hầu như nhà nào cũng có. Dân ta dùng cả cây từ ngọn đến rễ không chừa bỏ phần nào. Ngày nay với kỷ thuật mới, quan niệm tiến bộ về mỹ thuật, cộng với óc sáng tạo phong phú linh động, nghệ nhân ta đã chế tạo từ tre ra dụng cụ thông thường càng ngày càng hoàn thiện hơn, không những có ích mà còn bền bĩ đẹp chứ không ‘tốt mã rã đám’ đâu. Hơn thế nữa, với tài khéo léo truyền thống gia truyền và óc tưởng tượng cầu tiến dồi dào, nhiều ngành mới liên quan biến thành sản phẩm tre trúc thành tác phẩm nghệ thuật độc đáo tuyệt vời. Nhìn những bức tranh phiến tre họa khắc khảm xa cừ hay tô điểm bằng những hình vẽ hoa văn quen thuộc truyền thống hay thư pháp đổi mới tân tiến, những bức họa đồng quê sơn thủy, chân dung cả người lẫn thú, người với bộ râu tre khô quắc thước, đầu rồng, bờm sư tử nổi bật linh hoạt sống động, ta cảm thấy tre sao mả gần gũi với cuộc sống dân mình làm sao.

      Tác phẩm Rồng Tre
             từ gốc cây tre do cụ Lê Mưu (Hà tỉnh) sáng tác
Còn cây chuối cũng thật là đa dụng. Nhân ngày giỗ, lễ, bàn thờ được trang trí bằng một bình hoa với cây chuối non vươn sức sống mới lá xanh giữa nhửng cành hoa nở ngài hồng tím, hoa huệ trắng, bông ngãi, bông điệp ta đỏ vàng xung quanh cũng thật độc đáo.

Bông điệp ta

Nếu có dịp thình lình về vùng quê miền Nam, bạn thường sẽ được đãi bằng thực phẩm cây nhà lá vườn liên quan phần lớn do hai cây đặc biệt ấy. Thân chuối non hay hoa chuối người ta xắt mỏng trộn thành món rau ghém hay gỏi làm mồi để nhậu hay món rau sống ăn kèm với mắm kho, lẩu mắm. Canh chua bằng bắp chuối hột, dai dai dòn dòn và trắng hơn hoa chuối khác, cùng lá me non với tôm đất hay cá chốt vừa vớt lên đổ ra còn nhảy soi sói, chấm muối ớt sừng trâu đỏ au, nhớ chỉ thôi đã thấy phát thèm chảy nước mắt. Cá lóc mang còn đỏ hồng, nếu gặp dịp tát ao, quấn rơm dùng thanh tre xỏ lụi xuyên qua từ đầu tới đuôi được nướng trên lữa rơm ngào ngạt thơm.
Ngoài chuồng gà vịt gần những cây me cây táo, ổi, còn có chuồng cặp ngỗng cổ dài như ống nước cao su giữ nhà rất giỏi kêu ó lên inh ỏi khi có người lạ đến nhà. Thích ơi là thích lượm nhặt được trứng ngỗng to hơn trứng gà và cả trứng vịt Xiêm, nhưng sợ hết hồn hết vía lúc bị cái bầy ngỗng rượt cắn mổ, cái cần cổ dài dai dẻo mà chắc cứng nghiêng nghiêng, cà sát trên mặt đất di động cất cao hạ xuống trong tư thế của con rắn hổ mang giáp trận, vừa chạy đến xáp lá cà vừa la éc éc oác oác chói tai xốc óc, cái mỏ  bèm bẹp của nó thật cứng chui luồn cạp cắn đau bầm mình dễ sợ.
Cho đến một hôm, mợ Xanh không đi bán được. Số là như thường lệ, sáng sớm mợ đều quảy gánh cháo đi bán, trời còn tối nên mợ mang theo cây đèn lồng hay cây đèn chai, năm nầy qua năm khác. Thế mà, sáng hôm sau, có người phát hiện mợ Xanh đang nằm ngủ khì bên gánh cháo còn nóng hổi gần khét trên đường mòn ra chợ. Kêu mợ tỉnh dậy, mợ chẳng nhớ gì cả mà không hiểu tại sao mợ lại nằm đây không xa nhà bao nhiêu. Người ở đây thường bảo là ma dẫn đi. Có người khác còn bị nhét vào miệng cỏ khô, bùn đất, đó là chuyện ma người lớn thường kể có thể để hù các em trẻ phá phách nghịch ngợm không chịu đi ngủ sớm, ham đi chơi ngông về khuya. Bác sĩ cho rằng vì mợ làm việc quá độ nên may mà chỉ bị thiếp đi nếu không, hậu quả còn nghiêm trọng hơn. Thế là sau cơn đột biến ấy, mợ quyết định bước lên bước nữa.
Vả lại tình thế lúc bây giờ cũng căng quá. Bố ráp của Pháp, nhà ở quê tất phải đào hầm để tránh bom đạn mọt chê, đại bác nả vào ban đêm để ngăn du kích hoạt động hoặc yểm trợ lực lượng hành quân. Ban ngày sợ giặc, ban đêm tiếp tế trợ giúp thành phần kháng chiến chống Pháp. Trong những người hoạt động phải trốn tránh đó nay ở vùng nầy mai di qua vùng khác, nhà nầy thường xuyên hơn người khác, mợ thấy mình không thể nào tiếp tục sống góa mãi được nên đã chọn cậu Tư cậu của Chi.
Cậu Tư con nhà có học, có gia đình con cái, nhà làm ruộng lớn, hoạt động theo cao trào bấy giờ yêu nước chống ngoại xâm, nên cũng thường trốn tránh ở nhà mợ. Có thể hình ảnh của một người anh hùng hay cảm về tài ứng biến hay vì sắc vóc của cậu, có thể là tất cả lý do đó biến mợ thành bà vợ thứ  tự nguyện.
Cũng may mà mợ lớn của Chi là người đức hạnh, tốt bụng, có tầm nhìn phóng khoáng, hiểu biết rộng, thông cảm hoàn cảnh số phận đàn bà thời bấy giờ nên đã chấp nhận lời xin đến tạ lỗi thú tội của mợ sau. Từ đó hai bà, nhà ai nấy ở, sống rất hòa thuận nhau. Khi nhà của mợ Xanh bị Pháp đốt cháy tiêu tan, chính mợ lớn đã đem các con của mợ sau về ở chung cho tiếp tục đi học, trong khi mợ Xanh trở về làng mình dựng chòi bám đất. Cậu của Chi rất may mắn không phải bị đau đầu khó xử vì một cảnh hai quê nầy cho đến ngày qua đời. Còn thêm điểm đáng khen là khi mợ Xanh già yếu trên chín mươi tuổi, mợ vẫn còn chứng kiến được anh chị em hai dòng lớn nhỏ vẫn luôn trên thuận dưới hoà. Cho đến ngày lâm chung, chính người con trai cả đã đứng ra làm chủ tế đám tang ‘ dì ‘cùng với các em cùng cha một cách chân thành cảm quí. 
         Chuyện các ông có phòng nhì phòng ba là chuyện thường có lúc bấy giờ. Chi còn biết, ba của bạn Chi là một thương gia Việt gốc Hoa, có đến ba bà mà mỗi bà ở một nơi khác nhau, mỗi bà được chu cấp một cái tiệm hàng xén chạp phô để tự lực cánh sinh nuôi con cái và phục vụ ông chồng chung. ‘Chén dĩa trong sóng còn khua ‘huống hồ gia đình chia bảy chia ba. Thế mà thời bấy giờ chuyện đánh ghen ít có xảy ra đâu.
Ở đời người vầy người khác, các bà vợ lớn cũng thế, người tốt, người vẫn ghen ngầm hay dữ dội như Họan Thư hay sư tử Hà Đông. Ngay trong tỉnh nhà, hai chị em ruột giàu sang đều có cùng một người chồng có địa vị, thế mà rất hòa thuận chị chị em em. Lại trường hợp khác cũng tương tự như vậy, hai chị em đều có con cùng ở chung nhà, thế mà vẫn tránh nói chuyện nhau cho đến một người mất đi.
Một trong những câu chuyện đẹp về kiếp chồng chung thật khó tin đến nhiều người cho rằng là giả tưởng. Cô vợ lẽ trẻ không cưới hỏi đã được bà vợ cả đem về nuôi nấng trong nhà mình khi câu chuyện mang thai vỡ lở gây tai tiếng cho sự nghiệp của cả hai bên. Chẳng những hai bà sống thông cảm nhau không ganh tị ghen bóng ghen gió mà còn cùng hợp sức nuôi dạy các con nên người cho đến ngày ông và bà cả mất đi và các con đã lập gia đình ra riêng. Tưởng đến đây là chấm dứt thế mà, sau 75, bà vợ thứ được các con của mình bảo lãnh sang Mỹ. Khi biết tin các con dòng lớn còn ở Việt nam, người bị đi học tập, người vượt biên mất trắng, bà luôn luôn gửi tiền về giúp đỡ như con của chính mình. 
        Trong lịch sử nước ta, không ai phủ nhận công ơn của một thứ phi đức hạnh ở thế kỷ thứ 19, một lòng vì dân vì nước như Hoàng thái hậu Từ Dũ (1810-1902), con của Đức Quốc Công Phạm đăng Hưng, vợ của vua Thiệu Trị và mẹ vua Tự Đức.
           Tuy nhiên tám thế kỷ trước đó, một cô thôn nữ hái dâu mồ côi nghèo trở thành phu nhân, thứ phi, Nguyên phi rồi Hoàng thái hậu, đã đóng góp rất tích cực hữu hiệu chẳng những cho cơ nghiệp của vua Lý Thánh Tông mà cho đất nước và dân tộc ta bấy giờ, Hoàng thái hậu Ỷ Lan (1044-1177). Từ thế kỷ thứ mười một, Đức Bà đã có những tư tưởng thật tiến bộ văn minh sáng tạo, nhân đạo, phương sách tổ chức, cải tổ, chấn hưng thức thời mọi mặt xã hội đối nội đối ngoại phù hợp với đời sống và lòng dân. Cho đến ngày nay, gương sáng tuyệt vời đó khó tìm thấy được ở trong và cả ngoài nước nữa.
        Xin nhớ rằng không phải xuất thân từ gia đình vọng tộc quí phái đã được chuẩn bị huấn luyện trước như thông lệ ngày xưa, Đức Bà được tuyển vào cung qua một giai thoại nên thơ lãng mạn. Thế mà, Ỷ Lan phu nhân biết mình biết người nên khổ công tìm tòi học hỏi nhiều mặt làm cả triều đình khâm phục, và các nhà nghiên cứu văn học xếp vào hàng tác giả văn học thời Lý -Trần. Có những câu kệ trong những bài kinh của Đức Bà còn truyền tụng đến ngày nay :
        «  Sắc là không, không tức sắc
           Không là sắc, sắc tức không
           Sắc không đều chẳng quản
          Mới thấu được chân tông. »
         
        Đức Bà còn hai lần thay chồng, con làm nhiếp chính, lịch sử còn ghi công ơn.
         Lần thứ nhất, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Chiêm thành. Cũng năm nầy nước Đại Việt ta bị lụt to, mùa màng hư hại, loạn lạc nổi lên khắp nơi. Ở đây chúng ta mới thấy phát xuất hiện rõ tinh thần cao độ yêu nước yêu nòi, lòng nhân từ, tính bất khuất không chịu thua hoàn cảnh của bậc anh hùng, liệt nữ, nhà chính trị thức thời ái quốc đúng nghĩa. Không lợi dụng địa vị để củng cố kéo thêm bè cánh, thế lực để hưởng thụ trên máu xương của đồng bào, dù không qua một trường phái chính trị nào, thế mà chỉ bằng ý chi vượt khó, biết nghe lời cố vấn thừa đức tài kinh nghiệm có kế sách đứng đắn, Đức Bà, cô gái nông dân trồng dâu nuôi tằm Lê thị Yến trở thành Nguyên phi hiểu đời, thực tế, tài trí đức độ nên đã có quyết định kịp thời cứu đói người nghèo, ổn định tình thế, dẹp yên loạn lạc, duy trì luật pháp, bảo đảm kỷ cương phép nưóc. Anh thư như thế trên thế giới nầy, trong việc chấn hưng đất nước, thật có mấy ai ?
       Lần thứ hai, năm 1072, vua Lý Thánh Tông băng hà, Lý Nhân Tông lên ngôi mới 7 tuổi, ở khâu nầy, ta mới thấy tài điều khiển nước khéo léo của Đức Bà, hai lần cùng tể tướng Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống xâm lược (1075, 1077). Nhưng điểm đáng nói thêm ở đây là tinh thần yêu nước của Bà thật thuần khiết, biết dẹp lửa hận thù giữa thắng thua, đối địch, bỏ qua hiềm khích cũ, trọng nhân tài, đã mời Lý đạo Thành về trao lại chức Thái sư cùng chung lo việc nước. Hành động nầy thật không phải dễ thực hiện đâu nhất là sau cuộc chính biến hay khi nắm trong tay cả thế quyền. Lịch sử dựng giữ nước ta đã bao phen bất lực chứng kiến cảnh đau lòng ‘nồi da xáo thịt’ ‘cạn tàu ráo máng’ ‘nhổ cỏ phải nhổ tận gốc’ vô nhân ấy từ trước cho đến ngày nay, ngay ở thời kỳ văn minh thế kỷ 21 nầy mà vẫn chưa rút ra được kinh nghiệm xương máu để cùng hưởng sống hòa bình.
         Hoàng thái Hậu Ỷ Lan còn là người không quên gốc nông dân nghèo của mình. Một trong chính sách rất sáng tạo nhân đạo và tiến bộ nhất mà Đức Bà đã ban hành là tha cung nữ và chuộc nô tỳ, con gái nhà nghèo bị bán đi ở đợ gán nợ cho nhà giàu. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã viết :’Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy’.
        Chúng ta không quên việc giải phóng nô lệ được Tổng thống đầu tiên Hoa kỳ George Washington tuyên bố năm 1777 và Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ mới ra đời qua văn bản ở thế kỷ thứ 19 do Tổng thống Abraham Lincoln hai lần ngày 22-9-1862 và 1-1-1863, Pháp đến năm 1848 và Trung quốc mãi đến thế kỷ 20, năm 1909. Vậy mà sáng kíến cao đẹp đổi đời nầy đã được khởi xướng áp dụng từ đầu thế kỷ thứ 12, năm 1103, do cô gái quê Việt hái dâu tựa gốc cây lan lên làm Thái hậu, đáng phục biết dường nào.
       Thời Bà, luật pháp cũng rất nghiêm minh. Đức Bà đã xuống chiếu cấm giết trâu bò bừa bãi mà còn  phạt nặng kẻ trộm trâu. Chồng trộm, vợ cũng phải phạt nặng như chồng và ngay cả láng giềng không tố cáo hay a tòng cũng bị phạt lây. Thông thường, các nhà cầm cân nảy mực dù liêm khiết, tế nhị, xét đoán công tâm vẫn bị ràng buộc bởi những đạo luật hiện hành. Chỉ một yếu tố đơn giản đó thôi cũng đủ làm cán cân đôi khi bị nghiêng lệch vì những sơ hở, thiếu sót, văn bản chưa kiện toàn, chưa cập nhật hóa kịp thời. Do đó cho đến ngày nay, việc chống tham nhũng, gian thương buôn lậu, ma túy dính dáng đến các gốc bự chóp bu trong chính trường, kiêu binh còn ít cơ may áp dụng có hiệu quả vì bệnh ngàn đời là huyện binh vực huyện phủ binh phủ. Điểm son ở đây là hơn mười thế kỷ trước, Đức Bà đã nghĩ đến tính độc lập của ngành tư pháp rồi, một trong ba ngành căn bản trong các chế độ dân chủ tự do sau nầy.
        Về tôn giáo, để hiểu rõ hơn về đạo Phật, Bà trao đổi đối đáp trực tiếp với các cao tăng về thuyết giáo lý đạo Phật,và chính nhờ các câu chuyện giữa Đức Bà và các vị sư thời Lý, sách ‘Thiền uyển tập anh’ đời Trần còn ghi rõ, mà đến nay chúng ta mới biết được nguồn cội sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Quyết tâm học hỏi không ngừng tận tường để áp dụng đúng phục vụ đất nước của Đức Bà thật phi thường và đáng làm gương lưu danh. 
        Đến đây, chúng ta lại liên tưởng đến trường hợp khác, oan uổng cần tìm hiểu lại minh bạch để vinh danh, của một bà vợ thứ thế kỷ 19 cũng đã cống hiến rất nhiều cho đất nước, tích cực chống Pháp mặc tiếng thị phi, miệng đời, mà người đương thời bấy giờ hiểu sai lệch về Bà, do thành kiến phong tục xã hội xưa hoặc do guồng máy cai trị tuyên truyền xâm lăng đô hộ Tây, Bà hầu Trần thị Sanh ở Gòcông. Sinh ra trong một gia đình giàu có vọng tộc, mẹ Bà là cô ruột của Cô Phạm thị Hằng, và chính cha mẹ Bà đã nuôi dưỡng giáo dục cô cháu gái mồ côi mẹ trước khi được tiến cung và sau nầy trở thành Hoàng thái hậu Từ Dũ. Góa chồng một con, Bà quán xuyến gia sản to lớn, có thế lực nhất nhì trong vùng.
        Trong bối cảnh chính trị miền Nam lúc bấy giờ, năm 1861, Pháp tấn công Gia định lần thứ hai, Ông Trương Định cùng với Ông Nguyễn tri Phương giữ chiến tuyến Chí Hòa. Thế rồi Chí hòa lại thất thủ,  Ông Trương Định  lùi về Gò công giữ Định Tường, Gia định.
        Năm 1862, Pháp chiếm Biên Hòa và ngày 5-6-1862, triều đình ký hòa ước Nhâm Tuất với Pháp. Ông Trương Định, một lãnh tụ nghĩa quân lúc bấy giờ từ chối lời dụ hàng của tướng Pháp Bonard và bất chấp luôn chiếu vua Tự Đức ra lệnh bãi binh tháng 2- 1863. Câu nói khẳng khái của Ông :
        « Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta. »
Trương Định rút về Gòcông làm căn cứ địa kháng chiến, được nhân dân tôn làm Bình Tây Đại Tướng quân.
        Về phần Bà Sanh, để có thể giúp Trương Định một cách danh chánh ngôn thuận, bất chấp dư luận, một đám cưới tổ chức long trọng tại nhà cha mẹ của Bà, nhà từ đường họ Trần hiện nay còn ghi dấu, và vì thế từ đó Bà trở là một cái đích chĩa vào, lên án từ mọi phía. Việc tái giá của Bà chẳng những là cái gai nhọn cho gia đình bên chồng mà còn một hiện tượng chống đối với đạo tam tùng thứ ba « phu tử tùng tử » chồng chết theo con theo phong tục phong kiến thời bấy giờ.
        Sinh năm 1820 theo sách sử, vậy là khi rút về Gòcông năm 1861, Ông Lãnh binh Trương đã 41 tuổi, tất nhiên không ai phủ nhận là có thể Ông đã có gia đình từ lâu rồi, mà rất tiếc không một sử liệu nào xác minh điều nầy. Hơn thế nữa, như chúng ta biết rõ các ông đâu có bị phạt tội nếu có thêm vợ một vợ hai. Thế mà người dân địa phương vẫn gọi khiếm danh Bà là Bà hầu. Lạ hơn có sách ghi là Ông Trương còn có cưới ở Gòcông một bà tên Lê thị Thưởng giàu có và có con trai nữa ( ? ) giúp Trương Định mộ quân thêm khí giới, mà từ trước đến nay không một tài liệu lịch sừ nào nêu rõ được bà Thưởng nầy gốc gác ở đâu, con cái của ai ở địa phương nầy..
        Lại còn có nhà văn khác phê rằng Bà Sanh bằng lòng gá nghĩa với Trương Định là để dựa vào thế lực của Ông, hầu củng cố địa vị và bảo vệ gia sản của mình. Lập luận kết tội nầy quả không vững, có phần quá đáng, ác ý. Chúng ta biết rằng từ khi Ông Trương Định đã không tuân lệnh vua Tự Đức về việc bãi binh và trở ra Phú Yên, Ông Trương đã không còn là người thuộc quyền trìều đình Nguyễn nữa và đặc biệt đối với Pháp Ông trở thành một tên « loạn quân » nguy hiểm kháng cự đối đầu mà Pháp cần triệt hạ dù bất cứ giá nào. Tất nhiên người trong cuộc, Bà Sanh và dân chúng địa phương, biết rõ điều đó. Vậy thì nếu chỉ vì quyền lợi riêng thôi thì không một ai dại gì mà hiến cả tài sản, hy sinh danh tiếng cuộc đời của mình cho một vị tướng ly khai mà thế quân sự của nghĩa quân lúc bây giờ cần phải chỉnh đốn cấp tốc. Tóm tắt lại, chỉ có vị nào hun đúc đầy lòng yêu nước cao độ, tinh thần quyết chống xâm lăng đô hộ, bầu nhiệt huyết can đảm dấn thân hy sinh tuyệt đối mới có thể thực hiện được hành động quên mình cao cả đó, và trong trường hợp nầy lại do một phụ nữ, một vợ thứ, một bà hầu, một điểm son đuợc phê thêm sáng chói trong lịch sử bảo vệ nước nhà.
Chưa hết đâu, tấm lòng trung trinh và tinh thần cách mạng của Bà trong hoàn cảnh nào cũng không hề lay chuyển. Bằng cớ là chỉ ba năm sau, Ông Trương Định tuẩn tiết ngày 20-08-1864. Pháp đã đem phơi thây Ông để  răn đe dân chúng. Chính Bà Sanh đã lấy danh nghĩa là vợ chính thức, can đãm đệ đơn xin Pháp đem thây Ông về chôn cất trang trọng, lập mộ vinh danh trên đất của cha mẹ ruột của mình tại trung tâm châu thành Gòcông, lưu dấu ngàn năm.
Thế nhưng, để tiếp tục xóa bỏ mầm mống chống đối Pháp và tiêu diệt lòng tri ân đối với những chiến sĩ anh hùng, nhà cầm quyền Pháp tại Gòcông  bắt phạt Bà 10.000 quan Pháp, lý do vì lập bia mộ trái phép và bắt đục bỏ hàng chữ Bình Tây Đại Tướng Quân mà Bà đã cho ghi trên bia mộ.
Mười năm sau, Bà lại xin trùng tu mộ Ông Trương. Thế rồi các bức hoành phi và trụ đá ghi thân thế và sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc lại bị đục bỏ. Dưới thời Pháp thuộc, ngôi mộ trở nên hoang phế vì sự cấm đoán và dòm ngó của lính kín mật thám. Những người lớn trên bảy mươi tuổi ở châu thành Gòcông và làng lân cận đều còn nhớ rằng, thời bấy giờ, con gái đàn bà ít ai dám đi ngang qua khu mộ cây cối um tùm nầy, một mình, sợ ma rượt bắt, ma thật hay ma người giả dạng ?.
Vậy thì xin thưa Bà Trần thị Sanh quả thật là một tiết phụ đã biết hy sinh cái riêng tư của mình vì cuộc đại nghĩa rộng lớn cao cả hơn và nhất là có công lưu danh ngàn xưa tên tuổi sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Định. Lòng yêu nước và tri ân chân chính của Bà đáng được tôn vinh, ghi danh trong sách sử.


Lăng mộ bà Trần Thị Sanh tại Gò Công.

Thật ra sử kiện ngày xưa thường truyền miệng và ít được trực tiếp mắt thấy tai nghe nhất là liên quan đến phụ nữ và bí sử chuyện hậu trường sân khấu chính trị. Nhà viết sử cũng chỉ nghe kể lại nên câu chuyện có khi được thêm mắm dậm muối, thêm thắt tình tiết gay cấn éo le, khó hoàn toàn trung thực. Rồi chuyền tai người nầy sang người kia, đời trước truyền sang đời sau, dễ tam sao thất bản, người bênh kẻ đả kích, ai cũng dành phần đúng về mình, nhất định nguồn tin của mình là chính xác, đích thật, rốt cuộc người chết không sống lại để phân xử, hòa giài, biện minh. Người đương thời cứ đua nhau tranh luận chí tử. Rồi người thời sau lại lần giở trang sử xưa, tiếp nối luận bàn, thế hệ nầy sang thế hệ khác. Việc xác minh sử kiện cho đúng đề vinh danh người có công thôi, rất cần, cũng mới thấy không phải là một chuyện dễ làm. Thật đáng tiếc và ân hận biết dường nào !
Ngày nay với phương tiện dồi dào khoa học kỷ thuật tân tiến, người đương thời văn minh có làm được nhiều tiến bộ trên mọi bình diện lắm. Thế mà, sự thật chưa chắc được phơi bày thật sự, hoàn toàn khách quan, tự do. Hy vọng thế hệ trẻ tương lai càng ngày càng khôn ngoan và may mắn hơn trong việc truy tìm sử tích phân biệt đâu là chính tà công tội một cách hợp lý hợp tình.
Chúng ta còn nhận thấy thêm rằng cuộc đời như một ván cờ không thiên vị ai, trong đó tất cả đều là con cờ. Trong ván cờ người, con cờ người đều quan trọng như nhau trong địa vị, vị trí riêng, dù là tướng xe pháo ngựa hay là con chốt. Không phải chỉ có con xe tài, con pháo giỏi, con ngựa hay là cần thiết thôi, con tốt cũng có có thể chiếu tướng bí như thường :
     « Đem tốt đầu dú dí vô cung » (Hồ Xuân Hương).

Hy vọng rằng qua những kinh nghiệm vơi đầy trong quá trình lịch sử, tấm gương của mọi thành phần xã hội, những thành kiến bất công, nhận thức còn nông cạn do con người tạo ra, chúng ta sẽ biết tìm cách đối phó, rút ra những bài học hữu dụng tốt đẹp hơn hầu có thề sống phù hợp hòa đồng với trào lưu tiến bộ văn minh càng ngày càng phức tạp của thế giới  ngày mai.

                                          Cô Trần Thành Mỹ

THỜ BÌNH TÂY ĐẠI TƯỚNG QUÂN

tại Nhà thờ họ Trần ngày nay thu gọn trên khuôn đất Nhà thờ họ Trần xưa.
                        ( Hình ảnh do Đặng Phương Nam )


 
ĐỒNG HƯƠNG © 2012 - Xây dựng bởi Blog Thiết Kế – Hỗ trợ bởi Người Áo Lam - Giao diện Rumah Dijual