Tại sao Việt
Nam hiếm có di sản quốc tế vĩ đại như Kim Tự Tháp, Đế Thiên Đế Thích Angkor
Wat, Thánh Đường Saint-Michel, Lâu đài Versailles, v.v.v
Di sản thế giới tại Việt Nam được hiểu là các di sản thế giới được UNESCO công nhận
tại nước ta. Như vậy nó gồm các di sản thiên nhiên thế giới (N-Natural) và di sản
văn hóa thế giới (C-Cultural). Đôi khi các di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại và di sản tư liệu thế giới cũng được thống kê vào danh sách này.
Hiện
tại, Việt Nam đã có 7 di tích được UNESCO công nhận là Di sản thế giới gồm:
2 Di sản thiên nhiên thế giới:
Vịnh
Hạ Long, được công nhận hai lần, năm 1994, là di sản thiên nhiên thế giới,
và năm 2000, là di sản địa chất thế giới theo tiêu chuẩn N.
Vườn
Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, năm 2003, là di sản thiên nhiên thế giới theo
tiêu chuẩn N.
5 Di sản văn hóa thế giới gồm:
Quần
thể di tích Cố đô Huế, năm 1993, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn
C.
Phố Cổ
Hội An, năm 1999, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C.
Thánh
địa Mỹ Sơn, năm 1999, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C.
Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, năm 2010, là di sản văn hóa thế giới theo
tiêu chuẩn C.
Thành
nhà Hồ, năm 2011, là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn C.
Vịnh Hạ Long
(vịnh nơi rồng đáp xuống) là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu
vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo thuộc thành phố Hạ Long,
Thành phố Cẩm Phả, thành phố Hải Phòng và một phần của huyện đảo Vân Đồn.
Là
trung tâm của một khu vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều tương đồng về địa
chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa, với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc
và quần đảo Cát Bà phía Tây Nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km²
bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng lõi của Vịnh
có diện tích 334km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo. Lịch sử kiến tạo địa chất đá
vôi của Vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất
khác nhau, và quá trình tiến hóa carxtơ đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự
kết hợp các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến
tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa
mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ
sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ
với nhiều tiểu hệ sinh thái. 14 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật
đặc hữu đã được phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật định cư tại Vịnh.
Tiến
trình dựng nước và truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam, trong suốt hành
trình lịch sử, cũng khẳng định vị trí tiền tiêu và vị thế văn hóa của vịnh Hạ
Long qua những địa danh mà tên gọi gắn với điển tích còn lưu truyền đến nay,
như núi Bài Thơ, hang Đầu Gỗ, Bãi Cháy, v.v. Hiện nay, vịnh Hạ Long là một khu
vực phát triển năng động nhờ những điều kiện và lợi thế sẵn có như có một tiềm
năng lớn về du lịch, nghiên cứu khoa học, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, giao
thông thủy đối với khu vực vùng biển Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt
Nam nói chung.
Từ hơn 500 năm về trước trong bài thơ Lộ nhập
Vân Đồn, Nguyễn Trãi đã lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là "kỳ quan đá dựng giữa trời cao". Năm
1962 Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam đã xếp hạng vịnh Hạ Long là di tích danh thắng
cấp quốc gia đồng thời quy hoạch vùng bảo vệ. Năm 1994 vùng lõi của vịnh Hạ
Long được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới với giá trị thẩm mỹ
(tiêu chuẩn vii), và được tái công nhận lần thứ 2 với giá trị ngoại hạng toàn cầu
về địa chất-địa mạo (tiêu chuẩn viii) vào năm 2000. Cùng với vịnh Nha Trang và
vịnh Lăng Cô của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ
những vịnh đẹp nhất thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm
2003.
Vịnh
Hạ Long có từ xa xưa do những kiến tạo địa chất. Tuy nhiên, trong tâm thức của
người Việt từ thời tiền sử với trí tưởng tượng dân gian và ý niệm về cội nguồn
con Rồng cháu Tiên, một số truyền thuyết cho rằng khi người Việt mới lập nước
đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ
giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa
lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa và nhấn chìm giặc sau thấy
phong cảnh tươi đẹp đã ở lại và thoắt biến thành muôn ngàn đảo đá trên biển,
như bức tường thành vững chắc chặn bước tiến của thuyền chiến giặc.
Sau
khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây
lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về
trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là
Hạ Long, nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng
xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15km).
Lại
có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một
con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển
Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng
đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Tên
gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này
được gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê Vịnh mang các tên Hoa
Phong, Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Trên tờ Tin tức Hải
Phòng xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng
trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ
Long, khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng
các thủy thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900
và 1902). Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu
Á, loài vật huyền thoại được tôn sùng trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn
hóa các nước đồng văn châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt
Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất
hiện con vật lạ hiện hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do
khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ
đó và phổ biến đến ngày nay.
Hệ
sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long rất đặc trưng,
phong phú với tổng số loài thực vật sống trên các đảo khoảng trên 1.000 loài. Một
số quần xã các loài thực vật khác nhau bao gồm các loài ngập mặn, các loài thực
vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc
mọc ở của hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên
thế giới đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này
chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi vịnh Hạ Long mà không nơi nào trên thế giới
có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím (Chirieta halongensis), cọ Hạ
Long (Livisona halongensis), khổ cử đại nhung (Chirieta hiepii), móng tai Hạ
Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Một số tài liệu khác mở rộng danh
sách thực vật đặc hữu của Hạ Long lên 14 loại, bao gồm cả những loại đã được
người Pháp khám phá và đặt tên gắn với địa danh từ trước như sung Hạ Long, nhài
Hạ Long, sóng bè Hạ Long, giềng Hạ Long, phất dụ núi, phong lan Hạ Long v.v.
Danh sách những loài thực vật đặc hữu khác tại vịnh Hạ Long rất có thể còn được
bổ sung nhiều hơn, do chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đầy đủ,
toàn diện về thực vật trên tất cả các đảo trong khu vực Vịnh và vùng lân cận.
Chẳng hạn loài trúc mọc ngược mà mấy năm gần đây các nhà khoa học mới phát hiện
ra trên một số đảo đá của vịnh Hạ Long, một giống trúc có cành chĩa xuống đất,
khác các giống trúc thông thường chĩa cành lên trời.
Theo
thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long và
vịnh Bái Tử Long có 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập
mặn; đối với động vật người ta cũng thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò
sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Ở vùng này còn có loại khỉ thân nhỏ, hiện được
nuôi theo phương pháp đặc biệt tại đảo Khỉ.
Vịnh
Hạ Long là nơi gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong suốt thời
kỳ dựng nước và giữ nước với những địa danh như Vân Đồn, nơi có hải cảng cổ tại
miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ 12. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự hình
thành thương cảng Vân Đồn: "Kỷ Tỵ, (Đại Định) năm thứ 10 (1149). Mùa xuân,
tháng hai, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông (vịnh
Hạ Long) xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để
mua bán hàng hóa quí, dâng tiến sản vật địa phương". Thương cảng Vân Đồn với
đặc điểm là có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc, chia cắt biển thành nhiều vũng,
luồng lạch sâu và kín gió, giúp cho thuyền bè neo đậu an toàn, không bị gió bão
uy hiếp, đã khiến khu vực này trở nên sầm uất trong thông thương với khu vực và
nhiều nơi trên thế giới.
Bên
cạnh thương cảng Vân Đồn, tại vùng vịnh Hạ Long còn có Núi Bài Thơ lịch sử, nơi
lưu lại bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông hoàng đế khắc trên đá từ năm 1468,
nhân chuyến tuần du vùng biển phía Đông; và bút tích của chúa Trịnh Cương năm
1729. Bãi Cháy phía bờ Tây của Vịnh, tương truyền gắn với sự tích những chiến
thuyền chở lương thực của quân Nguyên-Mông bị quân dân nhà Trần do Trần Khánh
Dư chỉ huy đốt cháy, dạt vào làm cháy cả cánh rừng trong khu vực. Trên Vịnh còn
có hang Đầu Gỗ, nơi còn vết tích hiện vật là những cây cọc gỗ được Trần Hưng Đạo
cho đem giấu trước khi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, và cách Vịnh không xa là
cửa sông Bạch Đằng, chứng tích của hai trận thủy chiến trong lịch sử chống ngoại
xâm phương Bắc.
Hàng
trăm đảo, hang động, nhũ đá trong vịnh Hạ Long được đặt tên theo các huyền thoại,
truyền thuyết, hoặc theo trí tưởng tượng dân gian phong phú của cộng đồng cư
dân nơi đây.
Về
phong tục và văn hóa, ngư dân làng chài Cửa Vạn trên vùng vịnh Hạ Long hiện nay
còn lưu giữ những câu hát giao duyên cổ xưa, đó là lối hát đúm, hò biển và hát
đám cưới. Trong đó, theo cụ Nguyễn Văn Cải, ngư dân cao tuổi của làng chài Cửa
Vạn, hát đám cưới của Hạ Long không kém gì lối hát của người quan họ Kinh Bắc,
và đám cưới của cư dân vạn chài cũng khá đặc biệt vì theo phong tục chỉ được tổ
chức trong những ngày rằm. Đây là lúc trên Vịnh có trăng sáng, cá ăn tảng, người dân chài không đi đánh cá.
Ngày
21 tháng 12 năm 1991 Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng hồ sơ về cảnh quan vịnh
Hạ Long để trình Hội đồng Di sản Thế giới xét duyệt di sản thiên nhiên thế giới.
Năm 1993, hồ sơ khoa học về vịnh Hạ Long được hoàn tất và chuyển đến UNESCO để
xem xét. Trong quá trình hoàn chỉnh hồ sơ, UNESCO lần lượt cử các đoàn chuyên
gia đến Quảng Ninh khảo sát, hướng dẫn, nghiên cứu, thẩm định hồ sơ tại chỗ. Hồ
sơ vịnh Hạ Long được chấp nhận đưa vào xem xét tại hội nghị lần thứ 18 của Hội
đồng Di sản Thế giới.
Ngày
17 tháng 12 năm 1994, trong kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy ban Di sản
Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với
giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mỹ, theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế
về bảo vệ Di sản thiên nhiên và văn hóa của thế giới.
Trong
4 năm từ 2007-2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng kết hợp với Bộ Ngoại
giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, báo Tuổi Trẻ các hội
đoàn như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh Viên v.v... cùng tỉnh Quảng Ninh và nhiều địa
phương khác, tổ chức vận động quy mô bầu chọn cho Hạ Long là một trong Bảy Kì
quan Thiên nhiên Mới của Thế giới, là một cuộc bình chọn do Tổ chức tư nhân
NewOpenWorld (NOWC). Cuộc bình chọn này không phải do Tổ chức văn hóa, giáo dục
Liên Hợp Quốc (UNESCO) tổ chức và kết quả bầu chọn cũng không được tổ chức này
công nhận, nên có những dư luận không đồng tình cũng như chỉ trích. Nhưng theo
ông Trần Nhất Hoàng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
thì cuộc thi là "một cơ hội quảng bá cho Việt Nam, Thứ hai nữa là sau khi
có danh hiệu, sẽ tiếp tục quảng bá, thu hút thêm nhiều khách du lịch tới Việt
Nam thêm nữa".
Lúc
7h ngày 11 tháng 11 năm 2011 nhằm 2h ngày 12 tháng 11 năm 2011 (giờ Việt Nam),
vịnh Hạ Long được tổ chức New7 Wonders tuyên bố là một trong bảy kỳ quan thiên
nhiên thế giới mới sau cuộc kiểm phiếu sơ bộ.
Quần thể di tích Cố đô Huế là những di tích lịch sử - văn hoá do triều Nguyễn chủ
trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20
trên địa bàn kinh đô Huế xưa, nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng
phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam. Phần lớn các di tích này nay thuộc
sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và được UNESCO công nhận là
Di sản Văn hoá Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993. Hiện tại, cố đô Huế đã
được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc
gia đặc biệt quan trọng. Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia thành các
cụm công trình gồm các cụm công trình ngoài Kinh thành Huế và trong Kinh thành
Huế.
Kinh thành Huế
được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và
hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng.
Các
di tích trong kinh thành gồm:
Kỳ Đài Huế
Còn
gọi là Cột cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành Huế thuộc phạm vi pháo đài
Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ Đài được xây dựng vào năm Gia
Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ
Ðài được tu sửa vào các năm 1829, 1831 và 1840. Trong lịch sử, kỳ đài thường là
nơi đánh dấu các sự kiện quan trọng và sự thay đổi thể chế chính quyền ở Huế.
Trường Quốc Tử Giám - Năm 1803 vua Gia Long xây dựng Đốc Học Đường tại địa
phận An Ninh Thượng, huyện Hương Trà, cách kinh thành Huế chừng 5 km về phía
Tây, trường nằm cạnh Văn Miếu, mặt hướng ra sông Hương. Đây được xem là trường
quốc học đầu tiên được xây dựng dưới triều Nguyễn. Đến năm 1908, thời vua Duy
Tân, Quốc Tử Giám được dời vào bên trong Kinh thành, bên ngoài, phía Đông Nam
Hoàng thành (tức vị trí hiện nay).
Điện Long An
- Điện được xây dựng vào năm 1845, thời
vua Thiệu Trị với tên gọi là Điện Long An trong cung Bảo Định, phường Tây Lộc
(Huế) làm nơi nghỉ của vua sau khi tiến hành lễ Tịch điền (cày ruộng) mỗi đầu
xuân. Đây cũng là nơi vua Thiệu Trị thường hay lui tới, nghỉ ngơi, đọc sách,
làm thơ, ngâm vịnh.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế - Tại số 3, Lê Trực, Huế. Tòa nhà chính của viện bảo
tàng chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Hiện bảo tàng
trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng,
trang phục của hoàng thất nhà Nguyễn. Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế giúp người
tham quan một cái nhìn tổng thể về cuộc sống cung đình Huế.
Ngọ
Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế được xây dựng vào năm Minh Mạng
14 (1833). Ngọ Môn có nghĩa đen là Cổng giữa trưa hay Cổng xoay về hướng Ngọ,
là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế. Về mặt từ nguyên học,
"Ngọ Môn" có nghĩa là chiếc cổng xoay mặt về hướng Ngọ, cũng là hướng
Nam, theo Dịch học là hướng dành cho bậc vua Chúa.
Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821 và hoàn thành vào năm 1822 thời vua
Minh Mạng nằm trong khu vực miếu thờ trong hoàng thành Huế, cao 17m và là công
trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ
công tích của các vua nhà Nguyễn và các quan đại thần có công lớn của triều đại.
Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814
và đến năm 1820 mới hoàn tất. Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong
hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ,
trong đó có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng
và là tên gọi của cả quần sơn này.
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng
bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về
phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một
thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung
Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng
từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường
tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện,
cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người
Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và
tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980,
những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả
du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của
Việt Nam.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống
ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây
là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phần bố
dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công
trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát
triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự
pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa
nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang
phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến
trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc
sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín
ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển.
Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999 (ngày 4
tháng 12 năm 1999), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên
hai tiêu chí: Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn
hóa qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế.
Hội An là điển hình tiêu biểu về một
cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách
thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và cách thành cổ Trà Kiệu khoảng 20 km, là tổ hợp
bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao
quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm pa cũng
như là lăng mộ của các vị vua Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ
Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực
Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Thông thường người ta hay so sánh thánh địa này với các tổ hợp đền đài
chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor
Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn đã được
UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di
sản thế giới theo tiêu chuẩn C như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá
và theo tiêu chuẩn C như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến
mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp
hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng
Long - Hà Nội bắt đầu từ thời kỳ từ tiền Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ
VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành
Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua
xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất
trong hệ thống các di tích Việt Nam.
Vào lúc 20 giờ 30 ngày 31/7/2010 theo giờ địa phương tại Brasil, tức 6 giờ
30 ngày 1/8/2010 theo giờ Việt Nam, Ủy ban di sản thế giới đã thông qua nghị
quyết công nhận khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa
thế giới. Những giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này được ghi nhận bởi 3
đặc điểm nổi bật: chiều dài lịch sử văn hóa suốt 13 thế kỷ; tính liên tục của
di sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và các tầng di tích di vật đa dạng,
phong phú. Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình
giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên
ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc
biệt Phật giáo, Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông,
mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), đến từ Trung Hoa, Champa,
Pháp, để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa,
tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, qui hoạch các khu
cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn
biến văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.
Theo tiêu chuẩn III: Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh
chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng
trong suốt lịch sử liên tục 13 thế kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời
Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long-Hà Nội với các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn)
và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến
trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục
của các vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị,
hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới
rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự
phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà
Nội.
Theo tiêu chuẩn VI: Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội minh chứng
rõ nét về một di sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch
sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới.
Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một
quốc gia sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn ghi đậm dấu ấn
thắng lợi của một nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới.
Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành
Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại
Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay thuộc tỉnh Thanh
Hóa. Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm
hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là
một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây
dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm
1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa
thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây đã được chính phủ
Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.
Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly
chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Thành xây trên địa phận hai
thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn nay thuộc xã
Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá.
Theo sử sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng Giêng năm Đinh Sửu
niên hiệu Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết
định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính
Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương
vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và
điều hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách
chép Mẫn). Hồ Quý Ly xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã
Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên
Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương
triều Trần. Tháng 3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập
(1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi
tên là Đông Đô vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Vì vậy thành Tây Đô được
dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Thành đá được xây dựng trong một thời gian kỷ
lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng
vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến
năm 1402.
Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương
triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính
trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của
chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly
là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện,
táo bạo. Thành nhà Hồ được xây dựng và tồn tại trong những biến động cuối thế kỷ
XIV đầu thê kỷ XV, gắn liền với sự nghiệp của nhà cải cách lớn Hồ Quý Ly và vương
triều Hồ.
Theo chính sử, thành được xây dựng rất khẩn trương, chỉ trong 3 tháng.
Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là
trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có
sông nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ,
vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành
bao gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất với khối lượng
gần 100 000 mét khối, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề
mặt rộng gần tới 50m bao quanh.
Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc -
Nam dài 870.5m, chiều Đông - Tây dài 883.5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng
đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2 m x 1 m x 0.70 m, mặt trong đắp đất.
Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền - hậu
- tả - hữu (Cửa Tiền hay còn gọi là Cửa Nam, Cửa Hậu còn gọi là Cửa Bắc, cửa
Đông Môn và cửa Tây Giai). Các cổng đều xây kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi,
trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33.8 m, cao 9.5 m, rộng 15.17
m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1.5 m, nặng chừng 15 tấn).
Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ, di tích còn lại
hiện nay là 4 cổng thành bằng đá cuốn vòm, tường thành và đặc biệt là Di tích
Đàn tế Nam Giao còn khá nguyên vẹn. Trong các phế tích đáng chú ý có nền chính
điện chạm một đôi tượng rồng đá rất đẹp dài 3.62 m.
Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kỹ thuật xây vòm đá thời bấy
giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một
cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn
600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.
Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt
Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc
lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn
tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao.
Nói chung, các di sản thế giới tại Việt Nam được đánh giá cao về thẩm mỹ
thiên nhiên cũng như văn hóa vì chiều dài lịch sử của nó. Việt nam chúng ta có
quá ít di sản nếu so với các nước tân tiến như Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, v.v…Tuy
nhiên nếu so với những di sản nổi tiếng khác như Vạn Lý Trường Thành, Đế Thiên
Đế Thích (Angkor Wor Angkor Wat), Thánh Đường Saint-Michel và thánh điện Vatican, Kim Tự Tháp, Almalfi Coast
thì nhìn số lượng khách viếng thăm những nơi này vượt hẳn những di sản của Việt
Nam chúng ta. Nó chứng tỏ những di sản tại Việt Nam chưa đủ tầm vóc quốc tế. Có thể
một phần vì hạ tầng cơ sở như đường xá, điện nước và khách sạn chưa được hoàn hảo
hay thủ tục nhập cảnh còn quá phức tạp cho du khách chăng?. Hi vọng người viết hiểu
lầm về nhận định này. Chúng ta thử tìm hiểu những yếu tố nào làm cho các
di sản Việt Nam thu hút ít số lượng du khách, không bằng những công trình vĩ đại
nêu trên.
Để thực hiện được những công trình vĩ đại với tầm vóc quốc tế, thiết nghĩ
những yếu tố sau đây rất cần thiết:
§ Nhân tài khéo léo với kiến thức kỹ thuật cao,
§ Nhân lực hùng mạnh, nhẫn nại hoặc dùng nô lệ tối đa,
§ Quốc gia phồn thịnh, giàu có,
§ Lãnh đạo quốc gia hay vua chúa quyết tâm theo đuổi mục
đích chính là để lại bảo tàng quý giá ngàn năm cho con cháu những thế hệ sau.
Không ngần ngại hi sinh hàng vạn nhân mạng để hoàn thành mục đích. Thí dụ nhà độc tài Julius Caesar (55 TCN) và cũng được
xem là một trong những nhà quân sự lỗi lạc nhất, chính trị gia xuất sắc nhất và
là một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất của lịch sử thế giới thời La Mã cổ đại
hay một Tần Thủy Hoàng của Trung quốc ngày xưa…
Chúng ta lượt qua về những di sản tầm vóc quốc tế để nghiệm lại những kho
tàng của cha ông ta để lại:
Ø Vạn Lý Trường Thành và Cấm Tử Thành, Trung Quốc, những
nơi này đã được hoàn thành qua vài chục thời đại vua chúa. Các công trình này
đòi hỏi nhiều nhân lực, kỹ thuật cao và lòng nhẫn nại. Các vì vua Trung Quốc có
can đảm, giám hi sinh hàng vạn nhân mạng để hoàn thành công trình vĩ đại và để
lại cho con cháu dân tộc họ niềm hãnh diện với thế giới.
Ø Kim Tự Tháp – các vì vua không ngần ngại dùng tất cả tù
nhân Do Thái, cộng với nền văn minh sẳn có để hoàn thành một di sản độc đáo nhất
nhì thế giới.
Ø Thánh Đường Saint-Michel, Notre-Dame de Paris - Mont-Saint-Michel là một điểm du lịch với khoảng
3.5 triệu du khách mỗi năm. Hòn đảo và tu viện này. Từ năm 1979
Mont-Saint-Michel được xếp vào di sản thế giới của UNESCO.
Ø Cung điện Westminster – London. Cung điện Westminster,
cũng gọi là Tòa nhà Quốc hội hay Cung Westminster, ở London, Anh là nơi Lưỡng viện
Quốc hội (Viện Nguyên lão và Viện Thứ dân) nhóm họp. Lâu đài nằm ở bờ Bắc sông
Thames ở borough London của Thành phố Westminster, gần các tòa nhà chính phủ ở
Whitehall.
Ø Dinh thự Schonbrunn bên Áo – là 1 trong các dinh thự quan
trọng nhất về văn hóa ở Áo. Dinh thự này cũng là 1 trong các nơi hấp dẫn du
khách nhất từ thập niên 1860. Năm 2006 đã có 2.5 triệu lượt du khách tới thăm
Dinh và Khu vườn này, tổng cộng doanh thu là 29,4 triệu euro. Dinh và vườn
Schönbrunn đã được UNESCO đưa vào Danh sách di sản thế giới từ năm 1996, trong
khóa họp thứ 20.
Ø Cung điện mới (tiếng Đức: Neues Palais) là một cung điện
nằm trong công viên Sanssouci, Potsdam, Đức. "Cung điện mới" được vua
Friedrich II của Phổ (Friedrich Đại đế) cho xây dựng vào năm 1763, thể hiện nền
quân chủ Phổ sau khi giành chiến thắng trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến
tranh Bảy năm, thể hiện những tham vọng của nhà vua và thực lực của nước Phổ
đang trên đà lớn mạnh và phú cường, không thể nào bị cuộc Chiến tranh Bảy năm
tàn phá.
Ø Điện Cẩm Linh một dạng thành quách kiểu Nga (Kremlin) được
biết đến nhiều nhất. Nó là trung tâm địa lý và lịch sử của Moskova, nằm trên bờ
trái sông Moskva, trên đồi Borovitskii, là một trong những phần cổ nhất của
thành phố, trong thời kỳ hiện nay là nơi làm việc của các cơ quan tối cao nhất
của chính quyền Nga và là một trong những kiến trúc lịch sử-nghệ thuật chính của
quốc gia này. Là một tổ hợp pháo đài lịch sử nhìn ra Quảng trường Đỏ tại Moskova,
nó bao gồm các cung điện Kremlin, các nhà thờ Kremlin, và phần tường thành
Kremlin với các tháp Krem.
Ø Bờ biển Amalfi là quãng bờ biển phía nam của bán đảo
Sorrentine, thuộc tỉnh Salermo, Ý. Quãng bờ biển này trải dài từ thành phố
Positano ở phía tây tới thành phố Vietri sul Mare ở phía đông. Bờ biển này nổi
tiếng về mặt đất gồ ghề, vẻ đẹp rực rỡ, các thành phố đẹp như tranh và tính đa
dạng, bờ biển Amalfi đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới từ năm 1997.
Ø Piazza del Duomo (tiếng
Việt: Cánh đồng kỳ diệu) là một khu vực rộng ở Ý, có tường thành tại trung tâm
thành phố Pisa, Toscana, được công nhận là một trong những trung tâm chính của
nghệ thuật thời trung cổ trên thế giới. Một phần được lát đá và một phần bãi cỏ,
khu vực này được bốn công trình xây dựng lớn chiếm lĩnh: Duomo, Tháp nghiêng
Pisa, Baptistery và Camposanto. Nơi này còn được gọi là Piazza del Duomo. Năm
1987 cả khu vực quảng trường này được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Trải qua chiều dài lịch sử Việt Nam, các nhà vua và bậc
lãnh đạo quốc gia qua các thời đại luôn đối phó với nội loạn cũng như phiến loạn
và xâm lấn ngoại ban – Trung Quốc, Pháp và Nhật bản, cuối cùng là chiến tranh
Nam-Bắc điêu tàn. Nguồn kinh tế quốc gia luôn cạn kiệt và người dân chưa bao giờ
được sống trong sự phồn thịnh, hòa bình hoàn hảo. Vì thế các nhà vua hay các bậc
lãnh đạo không có thời gian, không đủ nhân tài nhân lực để nghĩ đến chuyện xây
dựng những công trình vỹ đại có tầm vóc quốc tế hầu mong để lại những kho tàng vô
giá cho những thế hệ con cháu về sau…
Với sự hiểu biết giới hạn về lịch sử, người viết có thể
có cái nhìn lạc quan về vấn đề. Người viết mong đón nhận nhiều ý kiến của các
quí thầy quí cô và bạn hữu để bổ túc thêm về đề tài phức tạp này…
Nguyễn Hồng Phúc (sưu tầm &
nghiên cứu)
Mọi ý kiến xin gửi về : hpnguyen1955@yahoo.com