Đối với đa số người Việt hải ngoại ngày 30-04
là một biến cố đau lòng nhất của một đời người. Cho dẫu rằng đa số dân Việt hải
ngoại sống tương đối khá đầy đủ ngày nay - có người nghèo người giàu. Song ai
cũng có khôn nguôi nỗi nhớ về một thuở sống ở quê hương Việt Nam mến yêu. Ba
mươi bảy năm dài trôi qua chúng ta thấm thía vì có ai ngờ rằng “một lần đi là một lần vĩnh biệt”; trong
số ấy có những người đã vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất lạnh nơi xứ lạ quê người,
họ đã ôm ấp những giấc mơ là được nhìn thấy lại quê hương yêu dấu. Cũng có người
với những mối tình tan vỡ…
Sau khi trúng tuyển tú tài 2 năm 73, gia đình
tôi thúc dục nộp đơn đi du học Canada. Trong lúc chờ đợi bộ Nội Vụ xét đơn tôi
nộp đơn thi vào đại học Phú Thọ, đại học sư phạm kỹ thuật Thủ Đức và Chính Trị
Kinh Doanh Đà Lạt. Gia đình tôi đề nghị lên Đà Lạt học tạm và sống cho quen với
khí hậu lạnh trước khi sang Canada. Thế là tôi khăn gối lên đường bắt đầu cuộc
sống sinh viên đại học. Tôi thuê nhà trọ gần chợ Hoà Bình. Ăn uống khá tiện lợi
vì gần giữa phố chính Đà Lạt. Thành phố sương mù lành lạnh rất nên thơ nhưng
không thiếu sự lãng mạn của nó. Khi nói về Đà Lạt người ta liên tưởng ngay đến
hồ Xuân hương, hồ Than thở, đồi thông hai mộ, thác Cam Ly, vườn hoa Đà Lạt,
v.v.v… Từ trường đại học về nhà trọ cũng không xa lắm. Tôi vẫn thích bách bộ
trên đường đến trường để có dịp ngắm nhìn những nữ sinh Bùi Thị Xuân với tà áo
dài màu áo thiên thanh, má ửng hồng, áo đan khép nép trông càng trữ tình. Xa xa,
hàng hàng lớp lớp sinh viên sỹ quan Đà Lạt oai nghiêm trong bộ đồng phục trắng
đi dạo trên đồi thông Đà Lạt. Tôi có quen vài anh bạn học chung với anh cả tôi
đang học ở trường Vỏ Bị Quốc Gia Đà Lạt TVBQGĐL. Làm sao quên được những buổi
chiều, ngồi nhìn mặt hồ than thở trong xanh, phẳng lặng, thú vị hơn là thưởng
ngoạn những dòng nước trắng xóa, êm ả,
hiền dịu, thác Cam Ly trắng xóa ào ào giữa lòng thành phố, đã làm rung động xao
xuyến tâm hồn bao nhà thơ, nhạc sĩ. Xung quanh thác Cam Ly là những anh chàng
cho thuê ngựa...giống như những chàng cao bồi Mễ Tây Cơ... Đà Lạt có những chiều
cuối tuần xuôi ngược, nôn nao tìm về một điểm hẹn hò, một giây phút gần gũi yêu
thương, hay ngỡ ngàng trước một lời giã biệt. Đà Lạt bây giờ chỉ còn những nhạt
nhòa, lãng đãng trong tận cùng trí nhớ. Hồ Than Thở, rừng Ái Ân, vườn Bích Câu,
đồi Kỳ Ngộ. Cô sinh viên Đại Học Chính Trị Kinh Doanh hay chàng trai Võ Bị Đà Lạt.
Chiều tím hay thung lũng hồng. Những thoáng ngất ngây nhìn "mắt em dìu dịu
buồn Tây phương" hay mấy lần lạc loài nhìn lại "phố núi cao; phố núi đầy sương; phố núi cây xanh; trời thấp thật buồn..."
Kỷ niệm Đà Lạt là nơi ghi dấu bao mối tình,
cuộc hẹn hò thơ mộng, và cũng là điểm khởi đầu của …một tình yêu chăng?. Bác sĩ
Yersin người khai sinh nó khi tạo dựng nên thành phố lý tưởng này, cũng đã ngán
ngẩm một câu chuyện tình của chính mình. Chuyện tình giết người trong mộng bên hồ
Than Thở. Đà Lạt trở thành nơi diễm tình cho khách lãng du khắp bốn phương
trời. Không thể nào và không bao giờ đánh mất thành phố thần kỳ nầy trong niềm
thương, nỗi nhớ.
Sau buổi học về môn kinh tế cô bạn sinh viên
tên Hân, gái Nha Trang gốc Bắc ngồi cạnh tôi đến hỏi:
‘’Hân đến lớp trễ hôm nay nên không ghi chép
hết note, anh có thể cho Hân mượn notes của anh nhé.’’
‘’Ok sẵn sàng’’ Tôi trả lời.
Từ dạo đó Hân tìm cách cùng đi học và về
chung nhà trọ vì ở cùng đường với tôi. Chúng tôi đi học và về nhà như bạn đồng
môn, tôi không nghĩ ngợi gì, vì dầu sao chúng tôi cũng là dân tứ xứ không bà
con dòng họ ở địa phương cho nên trao đổi qua lại cho đỡ buồn thì cũng không có
gì là quá đáng. Quen cô Hân được vài tuần rồi trở thành thói quen, sáng nào
Hân cũng chờ tôi trước cửa nhà trọ để cùng đến trường, nhiều khi tôi cố ý ra cửa
sau nhà trọ để tránh gặp mặt Hân. Nhưng sự việc không xảy ra dễ dàng như dự định.
Thỉnh thoảng cuối tuần Hân đến mời tôi đi dạo bờ hồ Xuân Hương hoặc đi ăn chè
Việt Hưng, nơi đó chúng tôi thường ngồi lặng hàng giờ nhìn ra khu phố chính của
thành phố ngắm tà áo bay của các cô gái Đà Lạt... Lúc đầu vì nể tình đồng môn
nên tôi chấp nhận lời mời để đi thăm mọi nơi cho biết Đà Lạt thơ mộng đến độ
nào… Đà Lạt xứ sở của các đôi tình nhân, lòng tôi lúc nào cũng bâng khuâng mỗi
khi nhìn hàng thông xanh rì thẳng tắp, hồ Xuân Hương, chợ Đà Lạt, những
ngôi nhà biệt thự mang dáng dấp kiến
trúc Pháp xưa, những liếp ngô, cải vườn cà phê, dâu... phủ lên cho đồi núi thêm
một màu xanh của sự sống. Nhìn xung quanh như đang đi giữa Châu Âu là mơ ước của
sinh viên Việt Nam lúc đó.
Đến thứ sáu cuối tuần thứ 4, nhân dịp đi dạo
từ trường về nhà trọ, Hân nói khẻ:
“Hân sẽ về Nha Trang Noël này thăm bố mẹ,
Hân mời anh đi cùng thể để ra mắt bố mẹ được không?”
Tôi giựt mình về lời đề nghị bất ngờ ấy và trả
lời bâng quơ rằng:
“Để V. xem
lại rồi trả lời Hân sau nhé.”. Nét mặt Hân có vẻ buồn buồn vì câu trả lời hơi
thờ ơ của tôi, chắc có lẽ Hân đoán được phần nào mối tình cảm của tôi dành cho
cô.
Vài ngày sau đó, tôi được tin thi đậu Cán sự
Phú Thọ và sư phạm kỹ thuật Thủ Đức, cái tin cũng không làm tôi bồi hồi cho lắm
vì tôi chỉ mong tin của bộ Nội Vụ chấp nhận cho du học mới là việc đáng trông
chờ.
Rồi qua tuần lễ thứ 5 tức đầu tháng 11, anh
tôi điện thoại lên Đà Lạt cho biết là hồ sơ du học của tôi đã được bộ Nội Vụ chấp
nhận và tôi phải thu xếp về gấp để lo giấy tờ bổ túc như hộ chiếu, giấy chấp nhập
đại học bên Canada, v.v….
Tôi không có can đảm đến nhà trọ của Hân để
từ giã cô ấy. Tôi nghĩ cô ấy sẽ rất thất vọng khi không còn nhìn thấy tôi để
cùng mỗi sáng đến đại học Đà Lạt với cô nữa. Nếu Hân đọc được những ký ức này
thì tôi thật tình xin lỗi Hân về việc bỏ đi mà không một lời từ biệt với cô ấy…
Cuối tháng 11 năm 73 tôi lại phải hành trang
lên đường để du học sang Canada, bồi hồi bỏ lại tất cả những kỷ niệm êm đềm của
tuổi thanh niên, kể cả Loan và Viết T. Hai cô bạn gái Hoàng Diệu Sóc Trăng vừa
quen một ít lâu và tôi nghĩ rằng chúng tôi có quá ít thời gian để hiểu nhau.
Tôi đến thăm hai cô bạn gái ở Sóc Trăng lần
cuối cùng trước khi khăn gói lên đường. Gặp nhau chúng tôi vẫn bình thản trò
chuyện dông dài, nào hỏi thăm về việc ăn học ở Đà Lạt như thế nào, dự định
tương lai sẽ làm gì, v.v.v… nhưng còn ngại ngùng chưa dám thố lộ với mấy cô bạn
chuyện đi du học của tôi cả. Tính tôi rất dè dặt, tôi chỉ báo tin một chuyện gì
khi biết chắc chắn là việc ấy sẽ xảy ra. Nhà Loan ở đối diện nhà thương Sóc
Trăng. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Tôi nhấn ga Honda vừa suy nghĩ miên
man, không biết phải nói làm sao với Loan đây? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không gặp
mặt Loan mình sẽ ra sao và Loan sẽ sống ở Việt Nam ra sao? Tôi cảm thấy thật
chơi vơi, hình như tất cả sắp vượt khỏi suy luận của mình, không chủ động được
gì hết. Khi tôi thắng xe trước cổng nhà Loan thì vừa gặp tôi đã hỏi ngay:
“V. mới đi Đà Lạt giữa tháng 9 mà bây giờ mới
tháng 11 đã về như vậy chắc là có chuyện gì không ổn đây”. Tôi nhìn quanh nhà: nhà vắng teo hình như cả nhà đếu đi vắng. Loan mời tôi vào nhà và tôi trả lời qua loa cho có lệ:
“À thì lâu lâu nhớ nhà và bạn bè về thăm có
sao đâu!”
“V. đã đi thăm Viết T chưa, chắc cô ấy trông
tin lắm nhỉ”. Loan rặn hỏi với mục đích tìm hiểu tình cảm của tôi nghiên về ai
hơn. Cô tiếp: “Loan và các bạn sắp lên lớp 12 tháng 9 tới, không hiểu tại sao
có nhiều bạn trai cùng lớp bỏ ra ngoài học hoặc trình diện nhập ngũ nữa...”. Mấy
cô hỏi rặn. Tôi im lặng trong khoảnh khắc để cố nhìn dáng dấp Loan, có lẽ đây
là lần cuối chăng! Tóc Loan dài óng ánh chải ngược về phía sau để lộ khuôn mặt
trắng trẻo với đôi mắt ngời tinh anh. Tôi bổng thấy không gian chìm mất mà thấy
gương mặt ấy là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ… Thấy vầng trán rộng, thấy
đôi mày dài. Chỉ tong ngần ấy ngắn ngủi mà sao tôi thâu nhận rõ các chi tiết.
Phải chăng đó là hình ảnh của Loan mà tôi muốn ghi lần cuối cùng vào tim, vào
óc?. Tôi trả lời:
“Mấy cô may là nữ sinh nên không phải tuân lệnh
Tổng động viên, chứ trai tráng như chúng tôi đều tản mác khắp nơi để đối phó với
lệnh TĐV ấy, có người vào quân ngũ, có người ra học thêm để thi nhảy tú tài 1,
có người đi lính kiển, Loan thấy khổ và thông cảm cho phận làm nam nhi không”.
Chúng tôi hàn huyên tâm sự liên miên rồi kể
chuyện ở trọ ăn học ở xứ trữ tình lãng mạn với khí hậu lạnh lẻo nhưng tôi không
dám đề cập đến chuyện quen bạn gái mới tên Hân, vì nghĩ các cô sẽ hiểu lầm về
mình… Nhưng chuyện đi du học tôi không dấu mãi với mấy cô được. Nhìn thấy Loan vui vẻ hỏi chuyện tôi không nở mở miệng nói lời chia tay. Cuối cùng rồi tôi
cũng phải bật mí chuyện đi du học trong tuần tới. Tôi nói:
“Có lẽ đây là lần gặp gỡ cuối cùng Loan à…”
“Sao vậy, V. vừa mới về từ Đà Lạt rồi lên
trên ấy có trục trặc gì, mà là lần này là lần cuối cùng…”
“Nói thật với Loan, V. có nộp hồ sơ du học
Canada nhưng vì không chắc là sẽ được chấp nhận cho nên V. chưa bao giờ mở miệng
với bạn bè… Bây giờ hồ sơ du học đã được chấp nhận và V. đang về quê để thu xếp
hành trang và từ giã mọi người để lên đường đây. Bây giờ còn đây với nhau chớ
lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không có dịp gặp nhau nữa”.
“À như thế thì quá tốt chứ sao có vẻ buồn thế
và tương lai sẽ rạng rỡ ra đấy nhé”
“Không hẳn như thế đâu Loan ơi”
“Sao vậy?”
“Loan biết đó, gia đình V. đâu có khá giả
gì. Gia đình mình đâu phải là con ông cháu cha cũng không phải là đại gia triệu
phú. Nuôi mình ăn học ở đại học Đà Lạt hay Phú Thọ là đã quá tốn kém. Bây giờ
sang Canada tốn kém ấy sẽ tăng gấp 10 lần. V. không muốn vì mình mà cả nhà với
9 anh em thắt lưng buột bụng để dành dụm nuôi cho V. ăn học ở Canada. V. thuyết
phục Cha mẹ cố gắng gom góp đủ tiền để mua được cái vé cho V. đến được Canada rồi
phần còn lại V. sẽ tự lo lấy. V. thừa biết là mình sẽ phải đương đầu với nột cuộc
sống mới đầy khó khăn và thử thách ở xứ người, không một người thân không cha mẹ
ngày đêm chăm sóc, việc ăn học cũng như sức khỏe, v.v.v…. Cha mẹ nghe lời giải
thích tạm ổn nhưng vẫn lo lắng cho đứa con vừa mới đầy 18 tuổi mà một mai này
phải xa Cha Mẹ để tự túc nơi xứ lạ quê người, sẽ ăn ở và sinh sống ra sao. Ở
tình huống ấy Loan sẽ rất hiểu trường hợp phiêu lưu của V. đấy...”.
“Thôi mình tạm chia tay ở đây và V nhớ gửi
thơ thường xuyên để tâm sự và chia sẻ với mình về cuộc sống lăn lộn nơi xứ người,
vui cũng như buồn thành công cũng như thất bại nhé. Chúc V. đi đường thượng lộ
bình an và gặt hái được nhiều may mắn”.
Yên lặng, Loan rơm rớm nước mắt, tôi lặng lẽ
ngoảnh mặt bỏ đi trong chốc lát để khỏi thấy cảnh phải chia tay lần cuối ấy,
lòng buồn rười rượi để lại mối tình đầu đời chưa nói thành câu…”V. đi đường bình an, nhớ gửi thơ cho mình
nhé…”
Ngày đưa tiễn tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất
thật đơn giản chỉ có cha mẹ, anh cả tôi và ba anh bạn của ông anh - Trần Hán
Lén, một anh bạn học đại học Minh Đức và anh Phước đến dự. Buổi chia tay của
chúng tôi sao mà buồn thế trong khi những gia đình giàu có Sàigòn thì là một họp
mặt chuyện trò vui vẻ xem như là những cuộc đoàn tụ anh em ở hải ngoại sắp tới.
Sau khi làm xong thủ tục hải quan thì tôi chuẩn bị bước ra sân bay để lên chiếc
Air France B727, anh đại uý cùng vài cảnh sát chận tôi lại tại cổng ra máy bay và
bảo trình hộ chiếu. Xem vội cái hộ chiếu, anh đại uý lắc đầu và nói: “đây là hộ chiếu giả anh ơi”. Tôi cảm thấy
khó chịu về mấy cái trò bẩn thỉu hù thiên hạ để làm tiền cho đến phút cuối trước
khi lìa xa quê hương. Tôi nhẹ nhàng phản lại “thưa đại uý đây là hộ chiếu được cấp bởi bộ Nội Vụ Việt Nam đàng hoàng,
nếu mấy thầy nói là hộ chiếu giả thì bộ Nội Vụ Việt Nam cũng là bộ Nội Vụ giả
chắc”. Mấy anh cảnh sát thấy giằng co với tôi chẳng đi đến đâu và rốt cuộc
các anh cũng để yên cho tôi lên máy bay. Thật tình là một sự dọa nạt và hối lộ
trắng trợn giữa ban ngày.
Trên
máy bay tôi vẫn còn nhớ nhiều cô nương du học khóc thút thít khá lâu. Khi đến
Paris để đổi máy bay đi Montréal thì đa số du học sinh Âu châu đã xuống gần hết
chỉ còn trơ trọi tôi và một anh VN khác. Trong lúc chờ đợi, chuyển đổi máy bay
tôi đến rặn hỏi mới biết anh bạn tên Huỳnh Công Hiển đi du học cùng trường với
tôi ở Montréal và Hiển sẽ có anh ruột đến đón tại phi trường. Thật may vì tôi sẽ
không sợ lạc đường đến Montréal và từ đó Hiển trở thành bạn thân cùng share
phòng với tôi hai năm đầu đại học.
Vừa đặt chân đến Montréal chuyện đầu tiên của
tôi là tìm chỗ ở trọ và sau đó bắt đầu ngơ ngác tham quan Montréal và quan sát
tình hình việc làm cho kế sinh nhai. Tôi tìm thấy 1 quán ăn Việt Nam nằm giữa
phố Montreal – Văn Lang. Tôi vội vào xin một việc làm, ông chủ quán hơi trẻ tiếp
đón tôi nồng hậu nói chuyện với tôi bằng tiếng Pháp:
Que puis-je vous
aider?
Tôi trả lời ngay:
“xin lỗi anh nói được tiếng Việt chứ”
“À chào anh, nhìn anh
tôi cứ ngỡ anh là người espagnol (Tây ban nha)”
“Dạ không, thưa tôi
là người Việt Nam chính cống và mới đến Montréal được hai ngày. Và V. xin hỏi anh ở đây có cần
người không ạ. Vì V. đi du học tự túc cho nên muốn tìm một việc bán thời gian để
lo đủ cho cuộc sống hàng ngày và trang trải học phí, tất cả đều là tự túc….”
“Vâng tôi hiểu, may
cho anh chúng tôi đang cần một bus boy làm ca đêm. Nếu anh chấp thuận thì từ
chiều mai anh có thể bắt đầu từ 18:00 giờ”.
Thế là dịp may cũng vừa
đến, vì tôi sẽ không sợ chết đói trên xứ người nữa. Đến ngày 20 tháng 5 năm
1974 ông chủ bảo tôi rằng ngày đó rất quan trọng và khuyên tôi ăn mặc chỉnh tề
vì sẽ có nhiều khách quý đến dự. Đúng như lời ông chủ đã nói trước, có rất nhiều
khách diện đồ đặc biệt đến dự đêm hôm đó, có điều là trên tường có treo lá cờ đỏ
với ngôi sao vàng ở giữa và ảnh Cụ Hồ nằm to tướng giữa phòng ăn. Tôi mới hiểu
ra là ngày ấy là ngày sinh viên yêu nước ăn mừng sinh nhật Ông Hồ. Và đó cũng
là ngày cuối cùng tôi làm tại nhà hàng Văn Lang. Sau đó tôi lại tiếp tục xin
làm bồi ở một nhà hàng tây Marquis. Hai năm đầu du học với visa student chúng
tôi không được đi làm nên buộc phải xin việc làm một cách bất hợp pháp. Nhưng
đa số chủ nhà hàng khá dễ dãi trong việc nhận người vì những job trả lương thấp
như thế, dân địa phương không thèm làm, nên họ phải tuyển người từ Ba Lan sang
Canada để làm những job thấp nhất của xã hội…
Bạn bè thân Hoàng Diệu
Sóc Trăng đều ở lại Việt Nam, mỗi người một nơi, Trịnh lên Sàigon học ĐH Văn
khoa, Huỳnh vào Khoa học, Bùi lên đường nhập ngủ nhưng anh lúc nào cũng vẫn nhớ
về cô bạn Loan ngày nào…
Những người bạn cùng share phòng 2 năm đầu đại học 73-74 với tôi gồm – Lê Phú Vũ (bố là tham mưu tưởng trường bộ binh Long Thành) và Huỳnh Công Hiển – là hai cựu HS Pétrus Ký và Tôn Thất Quốc Tuấn Taberd Terminal C (bố là trung tướng T. Thất Xứng – tư lệnh vùng 1 chiến thuật). Chúng tôi đặt ra luật lệ là mỗi ngày có một người nấu cơm chiều cho 4 người và thay phiên nhau làm việc lặt vặt khác như rửa bát và dọn phòng sạch sẽ.
Những người bạn cùng share phòng 2 năm đầu đại học 73-74 với tôi gồm – Lê Phú Vũ (bố là tham mưu tưởng trường bộ binh Long Thành) và Huỳnh Công Hiển – là hai cựu HS Pétrus Ký và Tôn Thất Quốc Tuấn Taberd Terminal C (bố là trung tướng T. Thất Xứng – tư lệnh vùng 1 chiến thuật). Chúng tôi đặt ra luật lệ là mỗi ngày có một người nấu cơm chiều cho 4 người và thay phiên nhau làm việc lặt vặt khác như rửa bát và dọn phòng sạch sẽ.
Ngoài việc học và làm
việc part-time, mỗi tối thứ năm, thứ sáu và cuối tuần để kiếm tiền ăn học anh
du học sinh không còn gì thú bằng là ngồi rung đùi nghe nhạc Trịnh Côn Sơn với
Khánh Ly, nhạc Hoàng Thi Thơ với Sơn Ca
và nhạc Phạm Duy với giọng ca truyền cảm của Lệ Thu mỗi khi xong cơm chiều. Nếu
chịu khó hơn nữa thì lội bộ sang câu lạc bộ công viên đại học để xem tivi, nhất
là từ đầu tháng 3 năm 1975 chúng tôi đều bách bộ mỗi tối đến campus trường để
xem tình hình chiến cuộc Việt Nam…. Tôi nhớ mỗi khi đi học về chúng tôi ùa đến
thùng thơ để xem thơ người thân và bạn gái từ Việt Nam gửi qua như những trẻ
thơ trông quà của mẹ mỗi khi mẹ đi chợ về. Đấy là niềm vui duy nhất của đời
sinh viên du học thời ấy… Ngày đó không có Nintendo, computer game hay PS3 để
khây khỏa như ngày nay. Trao đổi thư từ mất rất nhiều thì giờ chứ không như
ngày nay với Yahoo Messenger, Skype, Facebook, cellular phone vv chỉ cần vài
giây thì đã nói chuyện trực tiếp với bạn bè thân thuộc. Từ thuở bé đến giờ tôi
chưa bao giờ biết làm bếp là gì. Thế rồi chúng tôi cũng phải tự biến chế theo
khả năng tưởng tượng của từng đứa. Nấu phở gà ăn với mì sợi spaghetti, kho gà
xào gừng với nước mắm nhập từ Hong Kong mặn như muối…Vì muốn tiết kiệm tiền bạc
tối đa nên chúng tôi hầu như mua gà và lòng gà on sale để tiêu thụ…
Từ tháng 11 năm 73 đến
tháng 3 năm 75 tôi và Loan vẫn liên lạc với nhau qua thư từ. Kể cho nhau nghe
những vui buồn cũng như những sự khó khăn trong cuộc sống, việc học hành nơi xứ
lạ quê người… Rồi chuyện tình cảm của tôi và Loan cũng tiến xa hơn trong mối
tình thật trong sáng và học trò….
Khi sang Canada tôi cảm
thấy đơn độc vì thời đó đa số du học sinh là con cái của nhà giàu hay quyền thế
từ Sàigòn CÔCC (Con Ông Cháu Cha), đã có anh hay chị du học trước nên không bở
ngở như tôi. Vì thế trong thâm tâm tôi lúc nào cũng có mặc cảm thua xúc bạn bè.
Giữa tháng 3 năm 75
là lúc chúng tôi chuẩn bị thi Final exams cuối năm thứ 2 đại học Montréal trong
lúc quân miền Bắc tràn qua sông Thạch Hản xuyên qua cầu Hiền Lương để bắt đầu
cuộc tổng tấn công miền Nam. Mỗi ngày nhóm nhỏ sinh viên chúng tôi đều theo dỏi
tình hình thời sự nóng bỏng trên đài TV, ngày ấy chưa có CNN nhưng là CBS, ABC
và BBC London. Mỗi khi tỉnh nào mất vào quân BV thì họ tô màu đỏ thê lương trên
bản đồ hình chữ S...Từ ngày 13 tháng 3 đến 29 tháng 4 chỉ vỏn vẹn hơn 1 tháng
rưởi mà vết loan màu đỏ lan dần xuống tận đồng Bằng sông Cửu Long...Chúng tôi
không sống trong sự sợ hãi hay kinh hoàng vì cuộc di tản nhưng chúng tôi rất lo
lắng cho số phận người thân và người thương kẹt lại ở VN. Hơn nửa, chúng tôi
lúc nào cũng phập phòng lo lắng khôn nguôi vì không biết người thân và nhân dân
miền Nam sẽ sinh sống ra sao dưới chế độ mới...và chúng tôi những sinh viên lưu
lạc tha hương trên đất người sẽ ra sao và làm gì để sống với nguồn tài trợ từ
gia đình bị cắt đứt vĩnh viễn từ đây. Từ khi lên 17 tôi đã sống xa cha mẹ, ăn học
hầu như tự lập cho nên bi kịch tháng 4 năm 75 không làm sáo trộn cuộc sống du học
của tôi cho lắm như những sinh viên khác…
Tháng 3 năm 75 tôi nhận bức thư cuối cùng của Loan. Tôi trả lời và tâm sự rằng « có lẽ đây là bức thư cuối cùng Loan ạ. V. không biết Loan nghĩ thế nào về tình cảm của hai ta. V. không dám hứa hẹn lung tung. Nếu chuyện gì xảy ra V. chỉ xin ơn trên phù hộ cho Loan và gia đình luôn được bình an ». Tôi không biết Loan có nhận được bức thư cuối cùng ấy chăng !…
Tháng 3 năm 75 tôi nhận bức thư cuối cùng của Loan. Tôi trả lời và tâm sự rằng « có lẽ đây là bức thư cuối cùng Loan ạ. V. không biết Loan nghĩ thế nào về tình cảm của hai ta. V. không dám hứa hẹn lung tung. Nếu chuyện gì xảy ra V. chỉ xin ơn trên phù hộ cho Loan và gia đình luôn được bình an ». Tôi không biết Loan có nhận được bức thư cuối cùng ấy chăng !…
Rồi biến cố tháng 4 năm 75 lại đến, chúng tôi
mất liên lạc với nhau…
Vào những ngày đầu
sau biến cố năm 75, tôi xung phong làm thiện nguyện để tiếp đón và giúp đỡ những
người đồng hương tị nạn đầu tiên đến Canada, với niềm hi vọng nhỏ nhoi là gặp lại
người thân và người thương. Sau thời gian dài mà bóng dáng của sự mong đợi vẫn
mịt mù, trong sự mong mỏi này tôi gặp được một cô bạn người Sàigòn gốc Bắc và
sau nầy trở thành hiền thê của tôi, đây là niềm vui sau sự thất vọng dài không
gặp được người thân và người thương.
Buồn phiền vì mất tin
tức của người bạn gái, và mất liên lạc với gia đình, người thân. Những người tị
nạn đầu tiên đến Canada theo đường hàng không đa số là người bắc, gia đình có quyền
thế khá giả hay gia đình sỹ quan cao cấp trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Chúng
tôi gặp những anh đại tá không quân Nguyễn Văn Hưởng – phi trường Bình Thuỷ,
anh trung tá không quân Trần Nhật Thăng – căn cứ Biên Hòa, thiếu tá không quân
Vũ Tất Thắng – huấn luyện viên trường Không Quân Đồng Đế Nha Trang và trung uý
Đinh Vủ gặp tôi ở trại tạm cư Longue Pointe, Montréal vào những ngày đầu, họ xầm
xì và hỏi ngay tôi: ” Nhìn anh rất giống tài tử Nguyễn Chánh Tín nhưng sao anh
gầy thế hay là anh là em của tài tử này?”.
Tội vội trả lời rằng
“các anh lầm rồi V. không phải là em mà
cũng không phải là tài tử Nguyễn Chánh Tín. V. là dân Sóc Trăng thứ thiệt đấy mấy
anh ạ”.
Từ đó tôi làm quen mấy
anh sĩ quan không quân, đưa các anh về sống chung và share phòng với anh sinh
viên Sóc Trăng nghèo du học. Các anh dạy tôi uống bia và nhậu nhẹt đến khuya mỗi
cuối tuần tại apartment, nơi chúng tôi ở. Ở chung với các anh không quân hai
năm cho nên tôi biết rất nhiều sĩ quan không quân và hải quân vùng Montréal. Những buổi nhậu nhẹt như vậy các anh
bàn về những vụ phi hành với những cái chết nhẹ như đường tơ kẽ tóc hoặc chuyện
các anh bay lượng trên không trung rồi bất thần đâm ù xuống để làm oai với các
cô đào đi bộ dưới đất...Và qua sự quen biết này là mối liên đới cho tôi biết được
nhiều người khác, tôi quen rất nhiều các sỹ quan không quân và hải quân trước
75 như anh Hưng, anh Huê, anh Kiệt, Lập và Thọ. Qua Hưng tôi cũng làm quen được
chị ca sỹ Hà Thanh, có chồng là bác sỹ Kim, Hưng em trai bác sỹ này là sĩ quan
hải quân. Trong ba anh bạn sĩ quan không quân có một anh gọi ông Nguyễn Tấn Đời
bằng cậu. Vì thế chúng tôi có dịp gặp mặt và trò chuyện với ông ta ở
Montréal...
Cuộc chiến đã qua 37
năm nhưng những đau thương dân tộc từ đó vẫn tồn tại trong trí nhớ mỗi người
chúng ta. Nỗi đau thương xâu đặm nặng nhẹ tùy thuộc vào mỗi hoàn cảnh thoát khỏi
Việt Nam của từng người. Rất nhiều người tị nạn sang ngoại quốc nửa khóc nửa cười
vì gia đình ly tán. Cũng có nhiều cuộc tình tan vở. Hình ảnh của những người
chiến binh cùng một chiến tuyến phơi thây nơi trận địa, những người bị đưa đi học
tập cải tạo chết trong tù, những người dân vô tội đã nằm xuống trong rừng xâu
hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do vẫn chưa phai mờ
trong trí nhớ chúng tôi…
Chúng ta hãy cùng thấp
nén hương lòng đến tất cả người dân quân Việt Nam đã hi sinh cho biến cố
30-04-75. Chúng tôi luôn tưởng nhớ đến các bạn đồng môn Hoàng Diệu cũng như tất
cả trai tráng cùng lứa tuổi đã hi sinh đời trai trẻ của mình trong quân ngũ và
đặc biệt không quên các cựu thương phế binh VNCH đang sống đời sống đói khổ nơi quê nhà…
Nguyễn Hồng Phúc
Cuối tháng tư năm 2012