Gần đây chính phủ Canada cũng như Hoa Kỳ đã hợp thức
hóa một dự luật về việc sử dụng cần sa (marijuana/canabis) trong việc trị liệu
vài căn bệnh tâm thần.
Sự kiện này gây ít nhiều tranh cãi và bàn tán xôi nỗi
trong dư luận y khoa, giới báo chí cũng như trong dân gian. Mặc dù có sự hợp thức
hóa từ Liên Bang nhưng vẫn còn nhiều bàn cãi ở cấp Tỉnh Bang cũng như chưa có sự
đồng nhất về mọi phương diện như việc sản xuất (chính phủ, tư nhân hay tổ chức
tập thể) vì đây là một thị trường rất béo bở, việc cạnh tranh trên thương trường,
hệ thống thuế má ra sao, việc kiểm soát phân phối sỉ lẽ cần sa, giới hạn về tuổi
tác thành niên (18 tuổi bên Canada hay 21 tuổi như Hoa Kỳ) như luật về hút thuốc
hay bia rượu…
Ở thời điểm này thì Ontario và vài tiểu bang US đã
thông qua việc thương mại hóa cần sa/thuốc phiện trong y khoa trị liệu cũng như
không y khoa (non-medical use). Tỉnh bang này đã thành lập một hệ thống phân phối
bán sỉ cần sa riêng biệt gồm 150 tiệm chi nhánh của LCBO như hệ thống bán sỉ rượu
bia. Hệ thống bán sỉ bia rượu LCBO (wholesale) thuộc chính phủ Ontario và họ
đang bàn cãi dự luât mới cho phép tư nhân hợp tác trong việc phân phối bán lẻ
(retailer). Chính phủ Ontario cho phép thanh niên từ 19 tuổi có thể mua và dùng
cần sa. Trong khi đó bên Hoa Kỳ đã có vài tiểu bang cho phép bán cần sa trộn
trong vài món bánh kẹo cho trẻ em. Đồng thời giới khoa học làm nhiều thí nghiệm
cho thấy cần sa trong bánh kẹo cỏ tác động làm tổn thương trí thông minh các
em. Họ lo ngại rằng nếu Chính phủ Hoa Kỳ không có những chỉ đạo/dự luật chặt chẻ
trong việc trộn cần sa trong bánh kẹo sẽ gặp nhiều trở ngại trong tương lai.
Bài viết với mục đích đơn thuần nhắc lại một ít lịch sử
về cần sa thuốc phiện.
Năm 1805, một
dược sĩ người Đức tên Friedrich
Serturner đã làm cách mạng nghành
dược bằng cách chiết xuất morphine từ thuốc
phiện thô.
Opium là một loại nhựa trích từ hoa của cây anh túc với kết quả khả thi bằng những dụng cụ tối tân, có lịch sử lâu dài từ năm 3400 TCN trong nghành dược.
Ngày nay ở Irak người Sumeriand sống trong khu vực hiện đại này được biết là đã trồng cây anh túc từ lâu và nhận thức được ảnh hưởng của việc tiêu thụ nước ép của hoa anh túc và tôn vinh như là "niềm vui thực vật."
Điều này được nhận xét qua các tác phẩm nghệ thuật miêu tả những người đàn ông Sumeriand đang mang những cây anh túc, chúng ta đủ biết được khả năng trị đau của thuốc phiện.
Đến năm 1550 trước Công nguyên, thông tin về thuốc phiện đã lan truyền đến
Ai Cập. Tạp chí Ebers Papyrus, một trong những tài liệu y tế quan trọng nhất của
Ai Cập cổ đại đã đề nghị dùng nước ép của cây anh túc để dỗ dành những đứa trẻ
khóc.
Thuốc phiện cũng là thành phần chính của laudanum, một loại thuốc phổ biến được phát minh bởi bác sĩ Paracelsus vào thế kỷ thứ 16, có lẽ nổi tiếng với khẩu hiệu của ông: "độc dược có trong mọi thứ và không có thứ gì không có chất độc. Liều dùng quyết định thuốc phiện sẽ trở thành một chất độc hay là một liều thuốc trị liệu."
Thuốc phiện cũng là thành phần chính của laudanum, một loại thuốc phổ biến được phát minh bởi bác sĩ Paracelsus vào thế kỷ thứ 16, có lẽ nổi tiếng với khẩu hiệu của ông: "độc dược có trong mọi thứ và không có thứ gì không có chất độc. Liều dùng quyết định thuốc phiện sẽ trở thành một chất độc hay là một liều thuốc trị liệu."
Thuốc phiện là một ví dụ điển hình tiêu biểu của một chất mà có thể vừa là một chất độc và là một liều thuốc. Một liều cao sẽ gây tử vong và một liều nhỏ sẽ có tác dụng làm giảm đau.
Vấn đề mà các bác sĩ phải đối phó là độ mạnh của thuốc phiện rất khác nhau tùy thuộc vào loại cây anh túc được phân lập và số lượng được quy định ít nhiều dựa trên phỏng đoán của y sĩ.
Vấn đề này được ông Serturner giải quyết vào đầu thế kỷ XIX, với mục đích cô lập các nguyên tắc tác dụng được tìm thấy trong thuốc phiện.
Năm 1805, ông Serturner cố gắng cô lập chất kết tinh trắng để thí nghiệm
trên con chuột và chó đi lạc, được ghi nhận cả hai tác dụng an thần và có thể
gây nguy hiểm. Ông đặt tên cho thuốc mới là "morphium", phỏng theo
huyền thoại về thần giấc mơ của Hy Lạp Morpheus, vì thấy rằng thuốc có khả năng
gây ngủ.
Sau đó nhà hoá học người Pháp tên Joseph Louis Gay-Lussac tìm cách thay đổi
tên "morphium" thành "morphine" theo đúng thuật ngữ sử dụng
hậu tố "ine" cho ma túy.
Ít lâu sau ông Serturner đệ trình tác phẩm nghiên cứu của mình để được xuất
bản trong một tạp chí khoa học nhưng bị các nhà biên tập thời ấy bác bỏ vì phát
minh này chưa hội đủ tính chất khoa học.
Nhiều năm sau, ông Serturner bị rắc rối vì đau răng nên quyết định sử dụng
chất liệu mà ông đã thí nghiệm và tìm thấy sự hỗ trợ hoàn toàn hiệu quả. Điều
này đã khích động ông thực hiện nhiều thí nghiệm sau đó bằng cách quản lý thuốc
cho chính mình và cho ba tình nguyện viên trẻ tuổi. Ông kết luận rằng dùng 30
mg chất phiện gây ra cảm giác rất hạnh phúc, nhẹ nhàng và giảm đau, 60 mg sẽ
gây buồn ngủ và 90 mg gây nhầm lẫn và ngủ li bì. Ông đề nghị lượng 15 mg
morphine là liều tối ưu.
Tin tức về công trình khám phá của ông Serturner được các bác sĩ năm 1820
tiếp nhận và kê toa morphine tinh khiết cho bệnh nhân. Từ đó không còn là một vấn
đề dự đoán về liều lượng nữa.
Nhưng không may, morphine đã gây nghiện cho chính ông Serturner và ông trở
nên nạn nhân của chính việc khám phá của mình.
Tuy nhiên, morphine đã đạt được tiếng tâm như là loại thuốc đầu tiên được
phân lập ở dạng tinh khiết từ thực vật. Sự phát minh của Serturner đã thúc đẩy
những nhà khoa học khác cô lập các hợp chất hoạt động từ thực vật và họ đã chiết
được codeine từ thuốc phiện, strychnine từ hạt nấm vomica và đáng kể nhất là
quinine từ vỏ cây cinchona. Đây là mốc khởi đầu quan trọng trong ngành dược phẩm
hiện đại.
Mặc dù Sertürner đã cô lập được morphine vào năm 1805, phải mất 120 năm sau
đó trước khi cấu trúc phân tử của hợp chất được xác định bởi nhà hóa học hữu cơ
Sir Robert Robinson.
Năm 1952, ông Marshall D. Gates, Jr. đã thành công trong
việc tổng hợp morphine trong phòng thí nghiệm. Đây là một thành tựu thí nghiệm
thú vị về cấu trúc phức tạp của hợp chất, nhưng tổng hợp morphine không được khả
thi lắm về mặt thương mại.
Cho đến nay morphine được chiết từ chất nhựa cây anh túc và được sử dụng rộng
rãi như là một chất giảm đau mặc dù nó bị thành kiến dân gian về vấn đề gây
nghiện ngập.
Trong nhiều năm qua các dẫn chất tổng hợp của morphine đã được biến chế với
hy vọng sẽ cải thiện việc điều trị của thuốc. Người tiên phong trong việc tổng
hợp thành heroin vào năm 1874 là nhà hóa học Charles Romley Alder Wright tại
Trường Y khoa Bệnh viện St. Mary ở London.
Ông Wright đã tìm thấy một chất thay thế không gây nghiện như morphine và
chế biến ra chất diacetylmorphine bằng cách đun sôi morphine với anhydrit
axetic. Điều này đã được công ty Bayer chú ý ở Đức, và sau nhiều lần thử nghiệm
thêm, Bayer đã bắt đầu đưa ra thị trường một hợp chất mới như một thuốc giảm
đau và một loại thuốc an thần trị ho dưới cái tên "Heroin" - được cho
là một phiên bản "hoàn hảo" của morphine.
Đến năm 1913 sự kiện cụ thể rõ ràng là heroin gây nghiện nhiều hơn morphine
và hãng Bayer phải quyết định ngừng việc sản xuất heroin.
Hiện nay một số loại thuốc dựa trên sự thay đổi cấu trúc phân tử của
morphine được cho là có ít tác dụng phụ hơn morphine (side effect). Oxycodone
có lẽ là ví dụ tốt nhất được biết đến với cái tên thương mại khi được phát hành
là OxyContin.
Oxycodone có hiệu ứng phấn khởi tương tự như các thuốc opioids khác và là một
trong những loại thuốc bị lạm dụng trong đại dịch opioid hiện nay. Các chất này
có thể làm giảm đau hoặc sẽ gây ra phiền phức.
Vì thế chúng ta cần có sự lựa chọn khôn ngoan về việc dùng cần sa thuốc phiện
trong việc điều trị bệnh tâm thần.
Nguyễn Hồng Phúc
September 2017
Tham
khảo: The long and colourful history of Opium by Dr. Joe Schwarcz of the
Montreal Gazette, edition September 2, 2017