Hằng năm ở Âu châu lễ Các Thánh xảy ra ngày 1-11 và
cũng là lễ tảo mộ thân nhân quá cố. Nhìn nghĩa địa được chuẩn bị sạch sẽ, trang
hoàng đẹp đẻ, tràn ngập hoa nhất là hoa cúc đủ loại đủ màu, ta nhận thấy con
người luôn nhớ đến tiền nhân bao đời. Mỗi nước có tập tục khác nhau, nhưng lòng
nhớ ơn tổ tiên cội nguồn vẫn thế.
Ở đây, người
ta chẳng những viếng mộ người thân mà còn tỏ lòng ngưỡng mộ tri ân những bậc
anh hùng dày công với đất nước hay những văn thi ca sĩ lưu danh tiếng thơm tên
tuổi. Ngay cả nghĩa trang quân đội của các nước đồng minh trong hai trận thế
chiến I, 2 cũng được bảo quản duy trì truy niệm. Người ta thường bảo’’ mất là
hết’’ nhưng có những mất mát cần được lưu dấu đến ngàn sau.
Thật ra, chiến sĩ vô hay hữu danh
vẫn là anh hùng đã góp phần xương máu mình vào việc bảo vệ quê hương. Và bất cứ
trong cuộc chiến nào tất có hai phe thắng bại, địch thù, ‘thắng là vua, thua là giặc’.
Mặt trận đời đâu phải là đường một
chiều thôi mà còn là song hành mà thắng bại khó đội trời chung. Chống giặc
ngoại xâm chẳng hạn, mọi chiến sĩ luôn được kính trọng tiếc thương, lưu niệm.
Ngược lại trong cuộc nội chiến, thân phận của người vỉnh viễn ra đi hay còn lại
cũng tùy thuộc thế thời. Nằm xuống rồi, người được vinh danh, bia đá bảng vàng,
người cũng vì tổ quốc mà ‘thân bại danh liệt’.
Lịch sử nước ta cũng đã bị hoen ố
bao lần vì sự tương sát tương tàn tranh giành quyền lực, trả thù tàn bạo, đào
mồ cuốc mả, đem tro tàn hài cốt rải rắt trên sông…Lòng thù hận được biểu dương
như là một bài học của quyền lực chính trị ‘cạn tàu ráo máng’, ‘nhổ cỏ thì phải
nhổ cho tận gốc’.
Hơn thế nữa, con người vốn hay
đảng trí, thường nghĩ đến mình trước đã, chỉ để ý đến hiện tại mà quên dần dần
quá khứ. Chuyện đã qua thì nhắc lại ít đi nếu không có liên quan trực tiếp.
Người ta dễ quên những ân huệ đã nhận như lời hứa lúc hàn vi.
Chẳng hạn thường cầu khẩn nhiệt
thành Trời khi gặp điều lo lắng không may, hứa đủ điều rồi quên mất bẳng đi.
Hứa cuội tưởng chừng như không ai nghe thấy, chỉ mình biết mà thôi. Cũng có thể
là không đến nổi tệ bạc như thế, lâu lâu cũng có tiếng vọng khe khẽ của lương
tâm, nhưng lần lựa chần chờ mãi rồi …vô tình quên như người mắc ‘nợ như chúa
Chổm’ luôn tìm cách hẹn vờ lờ quịt.
Chiến tranh
nào cũng có hậu quả riêng, mất còn không thể tránh. Phần người nằm xuống dù có
đầy huân chương cũng đã qua rồi. Thương thay cho thân phận người còn sống, gia
đình tử sĩ cô nhi và đặc biệt là thương phế binh. Chính sách có ưu đải thế nào
đi chăng nữa, sự mất mát không thể lấp bằng cho phe thắng như thua.Thân tàn phế
sống như chết dỡ.
Oái oăm
hơn là trong cuộc nội chiến nồi da xáo thịt, anh em một nhà mà quay mặt hạ
nhau. Phe thua trân nằm xuống không yên mồ mả, thân sống còn mất cả hy vọng
niềm tin. Bạn bè đồng cảnh ngộ cũng nhìn nhau câm nín, nỗi đau nầy không biết
tỏ cùng ai ngay cả Trời cao. Tương lai gia đình là tuổi trẻ đàn con, thân không
trọn thì lấy gì chống đở. Tay quờ quạng nhìn đời bằng nửa mắt, nạng gỗ tre khập
khễnh vang dội giữa lòng người. Tội cho đám con có lý lịch nặng oằn, vì cơm áo
bớt sử kinh lăn lóc.
Sau 75, nhan nhản phế binh khác tuyến bên kia Bến Hải miền
Nam chẳng những hình hài xác xơ không toàn vẹn mà cả vốn liếng sống cũng tiêu
tan.
Sống ở đâu cũng phải bảo vệ đất mình,
nhiệm vụ công dân đâu ai thoát khỏi. Bất cứ ở nước nào cũng thế đại cường hay
kém mở mang, việc nhập ngũ động viên là việc chung. Nước có còn mới có tên, đã
dựng nước phải góp phần giữ nước.
Người lính là người thừa hành thực thi bổn
phận và quyền lợi. Việc giữ nước đâu phải của riêng ai, chỉ có kẻ độc tài có
mộng xâm lăng bành trướng ảnh hưởng lảnh thổ mới ép buộc con em mình thành lính
thuê giết mướn, sát nhân. Bằng chứng hiển nhiên nhất là trong quá trình chiếm
đóng nước ta, nhan nhản những binh sĩ của các nước bị Pháp đô hộ hội tụ nhiều
sắc dân đen trắng vàng, lính lê dương đáng sợ trong đó có cả dân thuộc địa Việt
Nam.
Ðau đớn hơn là trong cuộc chia rẽ,
gần đây như ở Ðài Loan Trung quốc, Nam Bắc Hàn, Việt Nam, cùng giống dòng tổ
tiên, vì ý thức hệ mà trở thành thù địch. Thương cho những người chiến sĩ của
hai vùng khác tuyến một sống một còn chống đối lẫn nhau.
Nhìn nghĩa trang sau cuộc chiến,
vết thương như rỉ máu thêm. Người ta như muốn xóa hết dấu xưa tích cũ, đập tan
cho hả cơn giận dữ biểu hiện tầm vóc và quyền uy của chiến thắng. Ðối với kẻ
xâm lăng đô hộ, đó là điều dễ hiểu tất nhiên. Mục đích lý tưởng là bành trướng
lãnh thỗ, tìm thị trường kinh tế mặc dầu luôn mang chiêu bài đạo đức là giúp
đở, đem ánh sáng tự do văn minh cho các nước nghèo kém mở mang.
Việt nam ta đã chẳng dưới trướng
của Tàu trên mười thế kỷ, tưởng chừng như bị đồng hóa khó ngóc đầu lên nổi,
“Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”, gần trăm năm biến miền Nam thành thuộc địa,
Bắc Trung dưới quyền bảo hộ thực dân Pháp.
Nhiều di tích lịch sử bi phá hủy, mồ mả đập
tan, người chiến bại yêu nước bị tử hình, phơi thây ‘hù’ dân chúng, ở tù ‘rục
xương’, nhốt trong ‘chuồng cọp’, hành hung cho đi ‘máy bay’ ‘tàu lặn’ đày ra
đảo xa…đó là chuyện nói lên thú tính độc ác của con người khác giống. Ðau
thương hơn vẫn là cảnh người hành hạ người cùng nguồn gốc quê hương.
Lịch sử thế giới cũng đã cho ta
thấy rõ điều đó và nỗi bất lực của con người không dứt bỏ tận gốc rễ tính cao
ngạo độc tôn, thù hận, người giết người, nguy hiểm hơn lại tỷ lệ thuận, leo
thang theo tiến bộ văn minh. Mộng xâm lăng chẳng hạn cũng thu hình biến thể từ
vật chất, ngoại hình sang ý thức nội tâm. Cụ thể hạn hẹp nhất như trên võ đài,
cuộc tranh tài đụng độ nẩy lửa giữa các trường phái quốc tế cũng đâu phải nhỏ.
Hậu quả chiến tranh Việt nam sau
75, hàng triệu người rời bỏ quê hương gia đình bằng mọi cách, chết trong bụng
cá, đói khát trên đại dương, hành hình do hải tặc, bơ vơ trên đất lạ để đổi lấy
tự do.
Nhưng đáng thương hơn vẫn là những
người còn ở lại, những người ‘chiến bại’ cùng huyết thống chịu hình phạt nặng
nề. Tre già khóc măng mà nghẹn ngào không dám khóc, mất chồng con mà không được
quyền hé môi tiếc thương. Trường hợp thương phế binh mới ‘ngậm bồ hòn’ tuyệt
vọng.
Nhớ lại vụ ‘tru di tam tộc’ trong
vụ án Thị Lộ đối với đại công thần Nguyễn Trải mới thấy luật trả thù giết người
từ trong trứng nước được áp dụng rộng rãi đến ba đời. ‘Vendetta’ ở Tây ban nha,
lối trả thù không đội trời chung chỉ giữa hai dòng họ thôi mà cũng được truyền
tụng xem như là dai dẳng độc ác vô tâm.
Tưởng đó là chuyện ngày xưa, tầm
nhìn còn hạn hẹp, thế mà ngày nay, ở thế kỷ 20
người ta khai quật Kim tự tháp ở Ai cập huyền bí, khám phá bao hành tinh
mới Titan, Pluton, lập trạm không gian, mà tội cha, con cháu chắt vẫn phải đền,
tài năng lại bị đánh giá bằng tờ lý lịch.
Chiến tranh ý thức hệ nổ bùng như vết dầu
loang làm thế giới lo sợ châm ngòi thế chiến thứ ba. Vừa tan rã mà đã manh nha
sôi sụt thánh chiến. Kỷ niệm thảm khốc của quá khứ, viễn ảnh tàn sát nhau như
thế vẫn không làm cho các cuộc nội chiến tương tàn tương sát, nồi da xáo thịt
như ở Irak, Congo,…giảm đi khí thế. Lửa tàn bạo tung ra bao chiêu mới, bắt cóc
làm con tin, cảm tử thiêu thân giết càng nhiều càng tốt để được lên thẳng chốn
thiên đàng riêng.
Những tưởng đã đến thế kỷ 21 rồi,
đời sống vật chất đến tâm linh đâu còn như ở thời kỳ ăn lông ở lỗ, hòa bình như
mở hội thế mà lòng người tráo trở chưa chịu chung vui.
Ðáng thương nhất là những anh em thương binh
phe chiến bại chỉ làm nghĩa vụ của mình, vì thời thế không được đáp đền săn
sóc. Gia đình quả phụ cô nhi cảm thấy như thuộc thành phần giai cấp bị bỏ rơi,
tách rời, sống trên đất nước mình mà không khác người dưng nước lã, thật đáng
thương.
Ảnh hưởng tâm lý đó đeo đẳng thâm sâu ray rứt
giết chết bao nguồn sinh lực cần thiết cho đất nước đáng lý được xây dựng phục
hồi hàn gắn sau chiến tranh trong tinh thần tương thân tương trợ quên hận thù
đổ máu của kẻ thắng người thua..
Chiến tranh Nam Bắc Mỹ khốc liệt
đã nhờ bàn tay Abraham Lincohn can đảm rộng mở, tinh thần hiếu hòa thức thời,
thống nhất hai miền, hòa hợp sức mạnh dân tộc đã đưa nước Mỹ thành một khối
đoàn kết siêu cường.
Lịch sử cũng
cho ta thấy hình ảnh của nước Ðức với một quá khứ hùng mạnh, nhà độc tài Hitler
tàn bạo không thua Tần thỉ Hoàng Trung quốc, một đại cường quốc đại bại sau thế
chiến thứ hai bị chia đôi bằng bức tường Bá linh. Thế mà họ đã vượt trên mọi đố
kỵ thống nhất đất nước, phá hủy tường Bá linh năm 1989, giúp nhau xây dựng tiến
bộ, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Truyền thống của dân tộc ta :
« Thương người như thể thương thân ».
« Nhiễu điều phủ lấy giá
gương,Người dân một nước phải thương nhau cùng. » cũng được thể hiện từ ngàn xưa.
Hình ảnh
của nước Ðức còn rành rành đó, gương sáng rạng ngời của nhà ái quốc Abraham Licohn
thống nhất hàn gắn Bắc Nam Mỹ không đổ máu mất tình đoàn kết, vinh nhục giữa
thắng thua. Hành động yêu nước cao trọng nầy đáng được truyền tụng đề cao noi
gương.
Việt nam
ta với di sản truyền thống của dân tộc hiếu hòa nhân ái, kinh nghiệm máu xương
chống ngoai xâm của chiến sĩ anh em hai bờ chiến tuyến hy sinh vì quê hương,
cần nhận thức điều đó, biết xóa bỏ thù hận thắng thua để cùng nhau xây dựng lại
đất nước đã quá khổ đau vì chiến tranh vươn lên.
Cố Giáo sư Nguyễn ngọc Huy đã viết vinh danh những chiến sĩ không chiến
tuyến nằm xuống vì tổ quốc quê hương:
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình.
Bền một lòng can đảm chí hy sinh
Dâng đất nước cả một đời trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đã len vào lòng đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông.
Và anh hồn chung với tấm tình trung
Ðã hòa hợp làm linh hồn giống Việt .
Cô Trần Thành Mỹ