Là
một nhân viên thuộc vụ/sở thanh niên và gia đình, về bộ phận xã hội, thì nhiệm
vụ của tôi trước tiên là “ Bảo
vệ thiếu nhi và vị thành niên về sức khỏe, tinh thần, tâm thần và tình cảm“. Sự
kiện nầy là dựa theo luật của Liên Hiệp Quốc là “tất cả thiếu nhi cũng như vị thành niên được quyền
sống trong hoàn cảnh, một môi trường không có bạo lực, không bị hành hạ hoặc
đánh đập, được quyền đi học ….“. Mặc dù còn nhiều
nữa nhưng tôi chỉ muốn đề cập đến nhiệm vụ chính của tôi mà thôi.
Nhiệm
vụ của tôi bao gồm:
· Cố
vấn cha mẹ, thiếu nhi, vị thành niên
· Giúp
đỡ, hướng dẫn
· Nếu
cần thiết sẽ tạo điều kiện để họ được có phương tiện giúp đỡ
Những
cha mẹ, hoặc những cha hoặc mẹ độc thân hoặc trẻ em cũng như vị thành niên đều
có thể tìm đến tôi, nếu
· Họ
có điều lo lắng trong sự phát triển của con cái hoặc/và trong sự dạy dỗ và giáo
dục con cái
· Họ
ở trong hoàn cảnh không lối thoát
· Trong
gia đình có bạo lực, hành hung
· Trong
gia đình có khủng hoảng, thí
dụ cha mẹ bị bệnh nan y hoặc bệnh nặng bất thình lình,
vợ chồng/cha mẹ muốn ly thân, ly dị.
Nếu
như người ta cần mình cố vấn thì dễ, còn như mình phải đến một gia đình nào, mà
cha mẹ hành hung con cái
hoặc đánh nhau, thì đôi lúc phải cần cảnh sát hộ tống,
có khi cảnh sát phải mặc áo giáp và mang súng nữa, còn mình làm việc xã hội thì
làm gì mà có những thứ này. Lúc đầu cũng run lắm, nhưng vài lần rồi
cũng quen đi.
Những
điều trên đây đối với người ngoại cuộc thì rất khó mà hình dung được, là tôi
làm cái gì, nhất là các quí vị
ở
Việt Nam, vì ở Việt Nam chắc chưa có sở nầy. Nhưng cái đó không phải là điều
tôi muốn đề cập sau đây.
Với
nhiệm vụ nầy thì tôi dù muốn dù không cũng phải “gặp gỡ” một vài gia đình người
Việt Nam. Đây là điều mà tôi rất phân vân, lúng túng. Đối với người Đức đã khó
rồi mà đối với người mình thì khó gấp mấy lần. Vì tôi không biết mình phải sử dụng
luật gì đây, luật Việt Nam hay luật Đức?
Vì thế khi đến với một gia đình người Việt thì tôi đều hỏi
trước là tôi phải dựa theo luật nào, phong tục nào để tư vấn đây? Cho đến bây
giờ tất cả đều đề nghị dựa theo luật Đức. Làm tôi nhẹ nhõm, vì tôi đâu có biết
luật Việt Nam ra sao đâu. Nên đến nay tôi chưa cần phải sử dụng đến cái câu “nhập
gia tùy tục”.
Phần đông những gia đình Việt Nam mà tôi đảm nhiệm thì vẫn
còn thực hiện cái câu “thương con cho roi cho vọt” theo nghĩa trắng và dạy dỗ
con cái rất nghiêm khắc theo tục lệ Việt Nam, đòi hỏi ở con cái phải nghe lời
tuyệt đối.
Thêm vào đó là vấn đề tiếng nói. Cha mẹ thì không thạo tiếng
Đức, con cái đôi lúc phải làm thông dịch cho cha mẹ. Trong việc thông dịch còn
xảy ra thêm là cha mẹ không hẳn tin là con mình thông dịch thành thật, còn mấy
đứa con lợi dụng cha mẹ không hiểu hết mà bỏ bớt những điều bất lợi cho chúng.
Cứ thế mà tình trạng gia đình trầm trọng hơn, cuối cùng thì gia đình phải ly
tán.
Người Việt Nam phần đông sanh ra và lớn lên ở Việt Nam,
nên nhớ thương nơi chôn nhau cắt rún
khôn cùng, nặng lòng với quê hương. Còn mấy đứa trẻ sanh ra trên đất nước, nơi
mà cha mẹ chúng nhận làm quê hương thứ hai. Chúng nó đi học, hấp thụ sự giáo dục
và nền văn hóa nơi chôn nhau cắt rún
của chúng. Vì thế sự xung đột giữa hai thế hệ và hai nền văn hóa hoàn toàn khác
nhau là hiển nhiên rồi.
Cũng có những gia đình còn mang gánh nặng cha mẹ, ông bà
còn ở Việt Nam như phải giúp đỡ tiền bạc. Gia đình hiện tại phải sống chắc chiu
hoặc cha mẹ phải làm nhiều công việc cùng một lúc, để có thể trả hiếu cho cha mẹ
ở quê nhà. Trong lúc đó thì con cái không hiểu được tại sao cha mẹ chúng phải
làm như vậy. Vì thế sự xa cách giữa cha mẹ và con cái càng ngày càng lớn hơn,
cho nên khó mà hàn gắn được.
Tôi cố gắng giải thích và hướng dẫn, nhưng không biết phải
đặt nơi chôn nhau cắt rún nào làm ưu tiên.Tôi vừa thấy thương cha mẹ vừa thấy
thương mấy các em. Vì tôi nhận thấy rằng, tình thương giữa cha mẹ và các con của
họ đều có, nhưng chỉ khác hẳn với sự chờ đợi của cá nhân. Cho nên nhiệm vụ của
tôi là làm sao cho cả hai bên cũng nhận thấy điều này, mà có thể giảng hòa và
cuối cùng sống hòa thuận với nhau.
Đôi lúc tôi cảm thấy mình bất lực trước những trường hợp
nan giải, không lối thoát, tôi muốn đầu hàng, nhưng giống như người nghiện nặng,
phải cần những trường hợp khó khăn giống như cần thứ thuốc nặng hơn để giải cơn
nghiện. Chỉ hơn hai năm nữa là về hưu rồi, tôi chỉ sợ mình không qua khỏi những
cơn nghiện sau đó.
Tôi rất khâm phục tất cả thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại,
vì cuộc sống hàng ngày phải đối đầu với hai nền văn hóa hoàn toàn khác nhau, thì
các em phải mạnh về tinh thần và tình cảm mới có thể đạt được sự đòi hỏi của
gia đình và xã hội hiện tại được.
Ngoài ra tôi có nhận thấy rằng, cái điều lợi lớn của người
Việt Nam ở hải ngoại là có thể chọn điều hay lẽ phải của cả hai văn hóa và nhập
lại mà giáo dục con cái thì con đường dẫn tới thành công rất dễ dàng.
Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy một đứa trẻ nào quên
nguồn gốc cả, mặc dù nơi chôn nhau cắt
rún của nó không phải là Việt
Nam. Theo ý tôi các em chỉ đạt được điều này là nhờ tình thương khôn cùng của
cha mẹ. Đây cũng là sự tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đó thôi.
Kiều Thị Hiếu (Hoàng Diệu 66 – 73)